CON ĐƯỜNG MỚI - KHỞI NGUỒN TRI THỨC

Biểu tượng song trùng trong thơ Trần Lê Khánh

Tập thơ "Ngàn bài thơ khác" của Trần Lê Khánh

Thơ ca vốn là thể loại kiệm lời, hướng đến sự hàm súc, mơ hồ và đa nghĩa. Đặc tính này có thể được phát huy khi nhà thơ sử dụng biểu tượng. Đọc thơ Trần Lê Khánh, chúng ta nhận ra hệ thống biểu tượng ấy. Nhận diện biểu tượng và khám phá nó là cách để người đọc đi sâu hơn vào các tầng ý nghĩa của văn bản. Tiểu luận này đặt ra nhiệm vụ xem xét thế giới nghệ thuật Trần Lê Khánh, từ đó đi trả lời cho câu hỏi: loại hình biểu tượng nào được trưng dụng trong thơ như là hiện thân của kiểu tư duy, thủ pháp nghệ thuật làm nên tính đa nghĩa, hàm súc và chất thơ trong những tác phẩm của thi sĩ.

1. Biểu tượng là gì?

Biểu tượng là một khái niệm vô cùng quen thuộc, đến nỗi ai cũng có thể nói cái này, cái kia là biểu tượng. Thế nhưng, cứ hễ cần đến một giới thuyết nghiêm túc, người ta lại dễ dàng và dễ dãi trích các định nghĩa rườm rà trong sách vở, mà lắm khi, chưa thực sự hiểu biểu tượng là gì?

Biểu tượng, hiểu một cách giản dị nhất, chính là một hình tượng biểu đạt có tính tượng trưng. Nó - biểu tượng, kể nhiều câu chuyện hơn những gì chúng ta có thể cảm nhận bằng giác quan thông thường, dẫn chúng ta đến những thế giới được cất giấu trong hình thức ổn định của nó. Nói cách khác, một điều gì đó trở thành biểu tượng, khi nó là kết quả của một quá trình tích lũy ý nghĩa lâu dài từ cá nhân hay cộng đồng, mang tính tượng trưng, đa nghĩa, mang khả năng đại diện, vừa lưu giữ nội hàm một cách bền vững lại vừa mềm dẻo linh hoạt để tích hợp các sắc thái mới từ quá trình vận động trong các không gian văn hóa. Giống như khi ta nghĩ về biểu tượng hoa sen trong văn hóa Việt Nam thì ở đó tích lũy các lớp nghĩa về đời sống, thân phận, vẻ đẹp, hương thơm, tinh thần Phật giáo, cộng với những biểu đạt khác liên quan đến môi trường sống và nhân phẩm, ý chí… Tương tự vậy, núi Fuji là một biểu tượng trong văn hóa Nhật Bản khi ở đó mang đầy đủ tinh thần, tư tưởng của xứ sở Phù Tang. Chính nhờ tính chất ổn định và linh hoạt, biểu tượng có thể tồn tại lâu dài vừa như một di sản lại vừa như một hiện tại. Trong nghệ thuật, việc trưng dụng biểu tượng thể hiện đẳng cấp của chủ thể sáng tạo, vượt lên những mô tả đơn nhất, trực nghĩa, nghèo nàn thường rất dễ rơi vào cũ mòn, hời hợt. Biểu tượng phản ánh tư duy nghệ thuật ở mức cao và phức tạp, đòi hỏi dụng công với bề dày văn hóa và trải nghiệm của người nghệ sĩ. Theo cách hiểu đó, trong thơ của Trần Lê Khánh, với hình thức là những bài thơ ngắn, hướng đến sự tối giản, biểu tượng là một phương thức, một thủ pháp đắc dụng nhằm biểu đạt được nhiều nhất trong dung lượng chữ ít nhất. Để làm được điều đó đòi hỏi nhà thơ phải biết chưng cất, lắng lọc, dồn tụ tư tưởng, mĩ cảm vào trong hình tượng, biến hình tượng thành biểu tượng, tựa như một khối đa diện, một rubic của ý - tình - hình - nhạc và lời.

2. Nhận diện kiểu loại biểu tượng trong thơ Trần Lê Khánh

Đọc thơ Trần Lê Khánh, tôi nghĩ nhiều về chủ nghĩa tối giản vốn đang khá thịnh hành trong đời sống văn hóa - sinh hoạt đương đại. Dĩ nhiên, chủ nghĩa này không phải mới, nó là di sản của tinh thần nhân loại hướng đến điều quan trọng nhất, cốt lõi nhất thay vì những trưng dụng ôm đồm, bề bộn mà thiếu trọng tâm. Nếu nhìn về văn hóa Việt Nam, lối sống này có từ dân gian với những đúc kết ngắn gọn trong tục ngữ, thành ngữ, ca dao của người lao động. Mở rộng ra, trong các sáng tác văn chương bác học, những bài kệ, thơ tứ tuyệt, haiku cũng có thể xem là một hình thức của sự tối giản. Trần Lê Khánh không cố nói dài, viết dài, anh dùng thể thơ ngắn như là một sự thử thách chính khả năng “lựa chọn” và “kết hợp” (R. Jakobson) của mình để chất thơ tỏa ra từ biểu tượng. Chẳng hạn:

Em

quên mùa thu

quên chiếc lá bay trong lòng

hai mặt hoang vu

                        (Yêu)

Ở đây, em là một biểu tượng, mùa thu là một biểu tượng, chiếc lá hai mặt hoang vu là một biểu tượng. Cảm xúc trượt rất nhanh qua mùa thu để trĩu lại ở em và chiếc lá. Trạng thái hoang vu bao trùm mĩ cảm, im lặng dồn nén ở cả hai mặt của chiếc lá (bay trong lòng). Trường nghĩa của biểu tượng gợi về ý niệm thời gian và sự phôi pha tàn úa, nhưng buồn hơn là sự hoang vu. Chiếc lá hai mặt hoang vu kiến tạo nên diện trường của nỗi bất lực, không thể nào khác được. Lá hoang vu hay lòng người hoang vu, em hoang vu, cuộc yêu này hoang vu? Không chỉ có vậy, trường nghĩa này đẩy ánh nhìn về phía chủ thể, làm hiện ra một cô đơn buồn bã cũng đang chìm dần vào hoang vu. Hãy để ý cấu trúc được nói tới trong biểu tượng chiếc lá: hai mặt hoang vu. Trong một hình dung thấm đẫm tinh thần cấu trúc luận nhưng lại được soát xét bằng hiện tượng học, triết gia Trần Đức Thảo có nói về việc lặn sâu xuống bề sau, mặt kia của chiếc lá để nhận diện các thực tại có thể được cất giấu. Hai mặt ấy là em và anh, là thời gian và sự hoang phế, là lặng im quên lãng và yêu thương dằn vặt. Có khi, trong chính mỗi người, mỗi sự vật, lại cũng hàm chứa những phản trái đối nghịch khiến cho tình thế hiện diện luôn là sự giằng co giữa yêu và quên, lặng im và cất lời, phá vỡ sự hoang vu. Chính ở đây, tính chất song trùng của biểu tượng hiện ra. Trần Lê Khánh dụng công ở chính điểm song trùng này khi anh luôn thường trực cơ chế tạo nên tính nhị nguyên trong cấu trúc của biểu tượng:

hoàng hôn giữ mây

như biển sâu giữ hờ ngọn sóng

để sóng trong lòng

vỗ về đâu

         (Níu giữ)

Khác với ẩn dụ (một biện pháp tu từ), biểu tượng song trùng là một tổ hợp của những đối cực, vừa gợi lên khía cạnh này đồng thời dẫn về bình diện khác, thậm chí những bình diện che giấu có khi phong phú hơn, đa dạng hơn. Nhiều khi, đây mới chính là mục đích của việc sử dụng biểu tượng song trùng. Biểu tượng song trùng không chú ý vào so sánh ngầm như ẩn dụ (dựa trên những mối liên hệ nhất định nào đó giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt), nó tích lũy, cất giữ, gợi dẫn trong các mã gen văn hóa, làm giàu sắc thái biểu đạt bằng sự hội tụ và phân cực. Trong ví dụ trên, bài thơ Níu giữ của Trần Lê Khánh, biển là một biểu tượng song trùng. Sóng vỗ về đâu là khía cạnh dễ cảm biết, ở phía này, phía trên. Nhưng, con sóng trong lòng lại là chiều kích khác, sâu hơn, lặn vào trong, hướng về chính thực thể đang-cần-được “vỗ về” là biển. Hóa ra, Trần Lê Khánh đã nhìn thấy phía sau mối tương liên của sóng và những vỗ về tít tắp là một kẻ đang âm thầm chờ đợi. Vỗ-về-đâu, sự díu dan, dấp dính của ngôn từ cũng nói lên tính song trùng ấy. Một cái nhìn hướng ra ngoài và một cái nhìn lặng lẽ ngấm vào trong, định hình một tâm thế, một tâm trạng, vừa cho đi nhưng cũng khẩn thiết một nỗi ước ao nhận về.

Biểu tượng sống trong không gian văn hóa, chính vì thế, khi bứng khỏi thổ nhưỡng, căn nền của nó, biểu tượng có thể bị “thất truyền”, bị diễn dịch sai, hoặc mất đi ý nghĩa biểu trưng. Bởi vậy, xem xét biểu tượng song trùng trong thơ Trần Lê Khánh, phải đặt vào ngữ cảnh chung của thơ, của kiểu tư duy sáng tạo, và rộng hơn là khí quyển văn hóa Việt Nam. Nếu như không cảm nhận được chiếc lá hai mặt như là một biểu tượng trong tâm thức con người, băn khoăn khi đứng trước thời gian (mùa thu); nếu như không thấy rằng biển là một thực thể luôn gợi lên sự rộng lớn, sâu thẳm, vừa bao dung chất chứa, lại vừa dữ dội cuồng khát thì khó hình dung ra những đối cực song trùng trong thơ Trần Lê Khánh. Về mặt hình thức, thơ ngắn, ngôn ngữ thơ hàm súc, chất thơ cô đọng trong biểu tượng diễn đạt trạng thái im lặng lắng nghe, mở rộng hồn mình về những chiều kích khác nhau để tương thông với diễn biến tinh vi của đất trời và lòng người. Mặt khác, tư duy song trùng, đa phức vốn là đặc tính tư duy nói chung và tư duy nghệ thuật, bởi lẽ, trước một sự vật, hiện tượng bất kỳ, con người luôn có xu hướng nghĩ đến - liên tưởng đến nguyên nhân, kết quả, hoặc sự tương đồng, đối lập với nó. Trần Lê Khánh dụng công vào các biểu tượng song trùng là cách ngưng đọng hóa đặc tính tư duy loài người trong không gian thơ của mình. Như thế, anh vừa có thể phát huy được cảm thức cá nhân, dân tộc, thời đại, đồng thời thâu nạp được ý niệm khái quát về tâm tính nhân loại. Thơ ca nếu có thể làm được điều đó cũng xem như là một bước dài tiến ra ngoài khu vực cá nhân, bản địa. Một nỗ lực đáng quý của Trần Lê Khánh. 

3. Kiến tạo biểu tượng song trùng như một thủ pháp

Nhìn lại, ở những tập thơ đã xuất bản của Trần Lê Khánh (Lục bát múa - 2016, Dòng sông không vội - 2017, Ngày như chiếc lá - 2018, Lục bát múa trọn bộ - 2018, Giọt nắng tràn ly - 2019, Xứ - rung một ngọn mây - 2020, Sự bắt đầu của nước - 2021, chúng ta nhận ra một trong những thủ pháp đắc dụng của anh là song trùng hóa biểu tượng/ hình tượng. Đó là đặc tính của tư duy thơ Trần Lê Khánh.

Thế giới nghệ thuật là sản phẩm của tư duy nghệ thuật. Trong tư duy nghệ thuật, các hoạt lực tưởng tượng, liên tưởng, suy tưởng liên tục diễn ra, đan cài, dìu đỡ nhau nhằm khai triển thi tứ, làm giàu thi ảnh, khai mở thi giới. Trần Lê Khánh luôn có ý thức trong việc tạo dựng các biểu tượng mang tính song trùng để giãn nở không gian mĩ cảm về hai phía. Một bên là những thực tại biểu kiến, phía kia là những thực tại ẩn giấu. Cố gắng đẩy tư duy đến giới hạn cực đại để làm giàu giá trị biểu đạt, Trần Lê Khánh chạm vào những câu chuyện của nhân sinh một cách sâu sắc:

người đàn bà

thận trọng

nhặt mình lên

từ những mảnh gương vỡ

(Đừng tự làm đau mình)

Mảnh gương vỡ là một biểu tượng song trùng khi nó chứa đựng tất cả những gì đã từng tốt đẹp nhất, vẹn nguyên nhất, đã mất đi, đã tan vỡ. Đồng thời nó làm hiện ra thực tại cắt cứa và đau đớn. Thận trọng nhặt mình lên từ những mảnh gương vỡ, người đàn bà nghĩ gì? Quá khứ vẹn nguyên hay thực tại đổ vỡ? Sự thận trọng mang ánh mắt của kẻ đã từng bị tổn thương, nơm nớp trước điều bất trắc. Tính song trùng trong biểu tượng gương vỡ vừa có khả năng tái tạo (điều đã vỡ) và biểu đạt trạng thái hiện thời của nhân vật trữ tình. Hai đối cực: lành - vỡ cùng hiện diện đã mở rộng biên độ của ý tưởng, thiết lập một quy chiếu “thận trọng”. Đó là cách tư duy kiến tạo thi giới của Trần Lê Khánh. Thủ pháp kiến tạo biểu tượng song trùng này lặp lại ở nhiều bài thơ khác, định hình một kiểu - lối tư duy phổ biến trong thơ:

em đi

dải cát mịn

lên da non

nơi trái đất tròn

(Mình có ngày gặp lại)

con sông nằm xuống

để cơn mưa dài

tắm cho sạch

những ngọn sóng tha phương

                             (Quê hương)

người trần

chở bùn lên địa đàng

em trồng

trái cấm nhân gian

(Hàng thật)

Trong những ví dụ vừa trích dẫn, có thể nhận ra các biểu tượng song trùng như: em, trái cấm, địa đàng, con sông, ngọn sóng tha phương. Em hay là trái đất, dải cát mịn hay làn da non, em là người trần hay em từ địa đàng, trái cấm ở đâu? Con sông đâu chỉ là sông, mà ấy là kiếp người. Ngọn sóng tha phương đâu chỉ là sóng, mà ấy là những dạt trôi bất định. Địa đàng có phải là khu vườn Eden nơi Chúa sinh ra hai kẻ đầu tiên (Adam - Eva) hay địa đàng nhân gian nơi có anh và em? Địa dàng gợi lên những gì thánh thiện, tươi đẹp đã mất, đồng thời gợi lên ở phía đối cực một địa ngục lưu đày mà loài người đã chấp nhận từ thuở hồng hoang. Ở phía của những gì hiển hiện, các biểu tượng nói về đời người, về cõi sống, về trần gian. Nhưng, ở phía khác, song trùng với nó là suy tư về sự tổn thương của trái đất, sự mỏi mệt của những con-sóng-người, sự thật của điều huyền nhiệm. Chất thơ tỏa ra từ hai phía ấy làm đầy thêm mĩ cảm của người đọc.

4. Biểu tượng song trùng và hiệu quả thẩm mĩ trong thơ Trần Lê Khánh

Hiệu quả thẩm mĩ hay còn gọi là chức năng thi ca (R. Jakobson) hoặc “chất thơ” (Trần Đình Sử). Chất thơ được tạo nên từ nhiều yếu tố, nhưng đọng lại ở biểu tượng như là hạt nhân của thế giới nghệ thuật. Như đã nói, với hệ thống biểu tượng song trùng, với thủ pháp song trùng hóa biểu tượng, chức năng thi ca có cơ hội được khai mở trong thi giới của Trần Lê Khánh. Nhìn lại, các biểu tượng “em”, “chiếc lá”, “dòng sông”, “biển”, “sóng”, “con đường”, “lửa”, “nước”, “chiếc bóng”, “mảnh gương vỡ”… trong thơ Trần Lê Khánh đều ẩn chứa năng lượng thi tính bằng khả năng gợi dẫn về hai cực của tinh thần, tư tưởng và mĩ cảm. Đồng hành trong quá trình gia tăng năng lượng thi tính là hiện tại và quá khứ, vui và buồn, hi vọng và tuyệt vọng, ánh sáng và bóng tối, quên và nhớ, tình yêu và sự hững hờ, ấm áp và lạnh nhạt, lành và vỡ, tổn thương và chữa lành… Thơ ngắn nên ít lời, ý tình dồn cả vào biểu tượng. Từ biểu tượng, những ngọn sóng của nhịp điệu, cảm xúc lan ra, nhè nhẹ mà vang ngân:

Mây

nhè nhẹ thở

trong một

giọt sương

(Mãi mãi)

Sương là tiền kiếp của mây hay mây là tiền kiếp của sương? Sự sống tuần hoàn trong một hơi thở nhẹ chất chứa ý thơ của một cõi lòng tinh tế, nâng niu và ân cần. Sương và mây là biểu tượng, là hình tướng, còn sự sống là chân tướng, đang nhè nhẹ cựa mình trong vạn vật. Mong manh là thế mà “mãi mãi” chính là tư tưởng của bài thơ, giấu trong biểu tượng. Nhưng, do hoạt lực song trùng luôn hiện hữu, người đọc không thể không nghĩ đến những rủi ro, bất trắc của sự đời. Mây vốn phiêu dạt, sương vốn mong manh, làm sao để “mãi mãi” là câu chuyện khiến người ta động lòng trước sự sống. Chất thơ vốn khác chất văn xuôi bởi nhịp điệu của sự mơ hồ, tinh tế, hàm súc, đầy gợi cảm. Bài thơ không kể, biểu tượng không nhiều lời, chất thơ như hương thơm lặng lẽ tỏa ra từ đóa hoa vô tư khiến ta phải dừng bước. Cấu trúc song trùng này đánh động người đọc ngay trong chính hơi thở nhẹ của nó. Trần Lê Khánh mở ra miền mĩ cảm của sự tinh tế bằng chất thơ dịu nhẹ, phập phồng trong biểu tượng.

Khi bàn về chức năng thi ca, R. Jakobson, một đại diện ưu tú của Chủ nghĩa hình thức Nga, đã nhấn mạnh đến năng lực lựa chọn như là điểm đặc hữu của thơ (khác với văn xuôi là thao tác kết hợp). Trần Lê Khánh đã lựa chọn biểu tượng song trùng để triển hoạt tư duy thơ, chất thơ, thành văn bản, thành thế giới nghệ thuật. Điều đó mặc nhiên quy định việc anh không cần (không nên) trưng dụng quá nhiều ngôn từ, hình ảnh, sự kiện mà tập trung tu sức cho biểu tượng:

mùa đông

đón gió đông về

cành cây khô

mọc ra một nhánh cây khô

(Lãng mạn)

Nhánh cây khô là biểu tượng khi đặt trong văn cảnh này. Thủ pháp song trùng dẫn người đọc về hai thái cực: sự sống - cái chết. Bài thơ nhan đề là Lãng mạn, hàm nghĩa về niềm khao khát sống, nhưng thực tại lại mang dáng hình cái chết. Thế nên, lớp nghĩa song trùng ấy cứ giăng mắc trong lòng người, đánh thức lòng ham sống, yêu quý và nâng niu sự sống trong mỗi chúng ta. Bối cảnh gió đông cũng là một ý niệm đầy thử thách, nhưng cũng vì thế ý nghĩa của biểu tượng càng thêm cô đọng. Hình tướng là sự chết, nhưng chân tướng lại là sự sống, chất thơ đi về giữa hai đối cực ấy như một mạch nhựa âm thầm. Đáng lý ra, Trần Lê Khánh có thể chọn: mùa xuân/ cành cây khô/ trổ nhánh, nhưng như thế e là lộ liễu quá. Anh xóa hết những tín hiệu sống, để mộng mơ về một điều kỳ diệu ẩn sau cái chết. Dụng công của người làm thơ là lưỡng lự giữa những chọn lựa như thế, để rồi dừng lại ở điều tâm đắc nhất, gói ghém được ý tình một cách tinh tế nhất.

Biểu tượng trong thơ như một tiếng vang, còn rung mãi trong lòng người đọc. Nó không phải là một thực tại hoàn kết và ổn định về nghĩa. Đời sống của biểu tượng luôn là quá trình xác lập, gìn giữ và kiến tạo, trong những ngữ cảnh văn hóa khác nhau. Sử dụng biểu tượng là một cảnh giới vượt lên sự mô tả thông thường (vốn là sở trường của dòng thơ lãng mạn), hướng đến giá trị tượng trưng. Chất thơ trong khí quyển tượng trưng lung linh vẻ đẹp của sự mơ hồ, đa nghĩa, giàu nhạc tính và thâm trầm lặng lẽ. Trần Lê Khánh ưa thích thể thơ ngắn, chi chút với từng biểu tượng, tạo lập những sắc thái song trùng cũng chính là ý niệm rốt ráo về việc tạo nên “tiếng vang” đầy thâm trầm, tĩnh lặng ấy.

Như là một nụ cười vừa vặn với mênh mông trong mùa thu dịu nhẹ; như là một chiếc bóng âm thầm bên cạnh chúng ta; như là bông tường vi chờ đợi suốt đêm đón một ban mai tinh khiết; như là chiếc lá rơi chấm hờ trên mặt nước… những bài thơ ngắn của Trần Lê Khánh cho dẫn ta đi qua từng khoảnh khắc, để cảm nhận sự sống trong từng hơi thở, trong từng nhịp điệu, mơ hồ mà tha thiết. Giữa những vang ngân ấy, người đọc dừng lại quan sát từng biểu tượng, với quỹ đạo song trùng của nó, kiếm tìm cho mình nguồn mĩ cảm được sẻ chia từ tâm hồn thi sĩ. Điều kỳ diệu của việc đọc những bài thơ này chính là từ sự sẻ chia ấy, những biểu tượng tái sinh trong tâm hồn ta, trở thành khoảnh khắc sống, nhịp điệu sống của mỗi con người.

TS. Đặng Ngọc Khương (Trường chuyên Ngoại ngữ, ĐHQG HN)

 

REVIEW

 

The dual symbolism in Tran Le Khanh’s poetry

Poetry is by nature a genre of few words, emphasizing implicity, ambiguity, and multiple meanings. This characteristic can be promoted when the poet uses symbolism. Reading Tran Le Khanh's poetry, we recognize that symbolic system. Recognizing and discovering the symbol is a way for the reader to go deeper into the layers of meaning of the text. This essay sets out the task of examining the artistic world of Tran Le Khanh, thereby answering the question: what form of symbolism is used in poetry as an embodiment of the type of thinking, artistic devices that generate the multi-meaning, implicitly and poetic in the poet's works?

1. What is symbol?

Anyone can claim that this or that is a symbol because symbols are such a common concept. However, while a serious theory is required, people quickly and effortlessly cite lengthy definitions from books, but occasionally fail to comprehend what symbols actually mean?

A symbol, in the simplest sense, is a symbolic representation. It tells us more stories than we can perceive with our common senses, leading us to worlds hidden in its stable form. In other words, something becomes symbolic, when it is the result of a long process of accumulating meaning from the individual or the community, and is symbolic, multi-sense, capable of representing, both sustainably and flexibly retain the connotations to integrate new nuances from the movement process in cultural spaces. Like when we consider the lotus symbol in Vietnamese culture, there accumulate layers of meanings about life, identity, beauty, fragrance, and Buddhist spirit, in addition to other expressions relating to living environment and dignity, will... In a similar way, Mount Fuji is a representation of Japan in Japanese culture since it embodies its spirit and way of thinking. It is by virtue of its stability and flexibility that a symbol can endure for a long time both as a legacy and as a present. In art, the use of symbols elevates the level of the creative subject beyond the straightforward, simplistic, and inadequate descriptions that sometimes lapse into the stale and superficial. Symbols convey artistic thinking at a high and sophisticated level, necessitating the use of the artist's broad cultural background and experience. In this interpretation, symbolism is a technique, a helpful device to express the most in the fewest words in Tran Le Khanh's poetry, in the form of short poems, toward minimalism. To accomplish so, the poet must have the ability to filter, distill, and assemble ideas and emotions into an image. Then, the poet must transform the image into a symbol, like a polyhedron, or a rubic of concept, affection, picture, music, and lyrics.

2. Identifying types of symbols in Tran Le Khanh's poetry

When I read Tran Le Khanh's poetry, minimalism—which is very common in modern cultural life—comes to mind frequently. Of all, minimalism is nothing new; it is the legacy of the human spirit, which prioritizes the most crucial and significant things over disorderly and misdirected requests. If we examine Vietnamese culture, we find that this way of living contains folk terms with condensed definitions in proverbs, idioms, and even folk songs. To elaborate, verses, quatrains, and haiku can all be considered forms of minimalism in scholarly literary works. Tran Le Khanh employs the brief poetry form to test his ability to “select” and “combine” (R. Jakobson) such that the poetic quality emanates from the symbol rather than trying to speak or write lengthy, such as:

miss

you forgot about the fall

you forgot about the leaf flying through the heart

both sides wild

(love)

 

Here, “you” are a symbol, autumn is a symbol, the desolated two-sided leaf is a symbol. Emotions slide very quickly through the autumn to rest on “you” and the leaves. The aesthetic is enveloped in a bleak state, with stillness suppressed on both sides of the leaf (flying in the lap). The meaning of the symbology is one of passing time and fading, yet it is sadder than desolation. It was inevitable that the field of helplessness would be generated by the desolated double-sided leaf. Desolated hearts, leaves, “you” or love? Furthermore, this semantic field draws attention to the subject and reveals a depressing loneliness that is likewise vanishing into the woods. Take note of the structure that the leaf symbol refers to: two-sided desolation. Philosopher Tran Duc Thao describes delving deeply into the back, the other side of the leaf, to uncover hidden truth in a metaphor infused with structuralism but analyzed by phenomenology. You and I, time and waste, stillness, oblivion, and agonizing love are the two sides of the coin. Sometimes, opposites exist in each person and object, and these opposites cause a constant struggle between loving and forgetting, silence and speaking, and breaking the desolation. It is here that the duality of the symbol comes into play. When Tran Le Khanh repeatedly employs the process that results in duality in the symbol's structure, he takes advantage of this point of duality:

 

the dusk holds onto the clouds

like the deep sea pretends to hold the waves

but the waves inside you

where do they go

(holding on)

 

Contrary to metaphor (a rhetorical strategy), dual symbolism combines opposites, conjuring up one idea while pointing to another, even hidden planes that are occasionally more varied and diverse. This is frequently the main motivation behind utilizing the same symbol. The dual symbolism enriches the nuances indicated by convergence and polarization because it accumulates, stores, and evokes in the cultural genetic codes rather than emphasizing implicit similarities like metaphors (based on specific correlations between the signifier and the signified). The sea serves as a dual symbol in the aforementioned instance from Tran Le Khanh's poem Holding on. On this side, above, there is a tangible feature where the waves are slamming. However, the wave in the heart represents an other, deeper dimension that is sinking in toward the sea, the very thing that needs to be “comforted.” It turns out that Tran Le Khanh noticed a person waiting in silence behind the correlation of waves and headlines. Where-do-they-go, entanglement, and intertwining of words all point to this dualism. An external and quiet inside view can both give and eagerly desire to receive, producing a state of mind and mood. Symbols exist in cultural space; consequently, when they are taken out of that space, they may get "lost," be understood incorrectly, or lose their symbolic value. Thus, in light of Tran Le Khanh's poetry's dual symbolism, it is necessary to evaluate poetry in general, creative thinking in general, and the Vietnamese cultural environment in general. It is difficult to imagine the dual polarities in Tran Le Khanh's poetry if you do not feel the double-sided leaf as a symbol in the human mind, wondering when standing in front of time (autumn); if you do not see that the sea is an entity that always evokes the vastness and depth, both tolerance and contentment, and fierce thirst. The poem's compact form, beautiful language, and symbolism depict the state of silence, listening, and stretching one's soul to various dimensions in order to communicate with the subtle changes occurring in the earth, heaven, and human heart. On the other hand, dualistic and polyphonic thinking is a trait of both general and artistic thinking since humans always have a tendency to identify each object or phenomenon with its cause, effect, similarity or opposite. Dual symbolism is a technique used by Tran Le Khanh to compress the elements of human thought into the space of his poetry. In this way, he can gain a general understanding of human nature while also developing his personal, national, and epochal sensibility. If poetry is able to do that, it is viewed as a significant move outside of the individual, native realm. Tran Le Khanh's effort was worthwhile.

3. Creating dual symbols as a artistic device

Looking back at Tran Le Khanh's published poetry collections (The Dance of Luc bat - 2016, The River Never Hurries - 2017, The Day is a Leaf - 2018, The Dance of Luc Bat, Full set 2018, The Sunlit Overflows the Glass- 2019, The Place of Nowhere - 2020, The Beginning of Water- 2021, we come to see that one of his useful devices is to create dual symbols/images. That is the characteristic of Tran Le Khanh's poetic thinking. The result of artistic thought is the artistic world. In order to develop poetry ideas, enrich poetry images, and open the realm of poetry, the activities of imagination, association, and reflection continuously take place, intertwine, and support one another. Tran Le Khanh consistently makes an effort to create dual symbols in order to increase the visual area on both sides. Realities that are visible on the surface and those that are hidden. Tran Le Khanh deeply engages with the stories of life in an effort to stretch the boundaries of thought in order to enhance expressive value:

the woman

carefully

picks herself up

in pieces of the broken mirror

(do yourself no harm)

 

When a broken mirror encompasses all that was once best, most intact, lost, or broken, it serves as a dual symbol. It also brings to mind about the realities of pain and cutting. What did the woman think as she carefully picked herself up from the broken mirror? The intact past or the fractured reality? In the face of uncertainty, caution has the eyes of someone who has been wounded before. The broken mirror symbol's dual nature has the power to both express and reproduce the lyrical character's present situation (the broken thing). The inclusion of two polar concepts—healing and breaking—has widened the scope of possibilities and established a “cautious” reference. That is how Tran Le Khanh approaches constructing an artistic world. Many additional poems use the same technique to create dual symbolism, creating a kind or common way of thinking in poetry:

when she is gone

the silky sand

sheds its scab

at the place where the earth is round

(we will meet again)

 

rivers are calm

waiting for the long rain

to wash away

all waves of nostalgia

(my hometown)

 

people of the earth

carry mud into heaven

where a single girl

plants her own forbidden fruit

(real)

 

It is possible to identify dual symbols like “em, “you or she”, forbidden fruit, heaven, rivers, waves of nostalgia in the aforementioned cases. Where is the forbidden fruit? Are “you” from heaven or from the earth? Are “you” made of fine sand or of fresh skin? The river is a symbol of a human life, not merely a river. It's not just waves when they are far away; they are erratic drifts. Is paradise the garden of Eden, where God created Adam and Eve, or the paradise on earth, where “you” and the poet currently reside? At the same time because paradise easily conjures up what is good and lovely that has been lost, it also conjures up the exile hell that mankind has embraced since the beginning of time. The symbols on the visible side refer to human life, life, and the globe. On the other hand, it also coincides with a meditation on the earth's vulnerablity, the weariness of human waves, and the reality of the enigma. The reader's aesthetic senses are satiated by the poetry that emanates from both sides.

4. Dual symbolism and aesthetic effect in Tran Le Khanh's poetry

The poetic function (R. Jakobson) or “poetic quality” (Tran Dinh Su) are other names for the aesthetic effect. Despite having a wide range of components, poetry is nevertheless regarded as the core of the artistic world. As previously indicated, Tran Le Khanh's poetic world has the potential to open up the poetic function through the dual symbol system and the way of parallelizing symbols. Looking back, Tran Le Khanh's poetry contains latent poetic energy due to his ability to conjure the two poles of spirit, mind, and aesthetic. These symbols include “em, you or she”, “leaf”, “river”, “sea”, “wave”, “road”, “fire”, “water”, “shadow”, “the broken mirrors” … Present and past, happiness and sadness, hope and despair, light and darkness, forgetting and remembering, love and apathy, warmth and cold, heal and break, pain and heal, are all present as the lyrical energy grows. Since poetry is usually short, there are not many words, and symbols take center stage. Waves of rhythm and feeling emanated from the symbol, quietly but powerfully:

the cloud

breathes

inside a drop

of dew

(for ever)

 

Is dew a past life of clouds or clouds a past life of dew? The cycle of life in a light breath contains the poetry of a delicate, nurturing and considerate heart. Dew and clouds are metaphors and forms, whereas life is the truth that flows gently through everything. Because of its fragility, the poem's underlying message of "forever" is veiled in the symbol. However, because of the constant effect of dual symbolism, readers are compelled to consider the dangers and uncertainties of life. How do the poet turn “mãi mãi” into a tale that makes people feel touched by life when the clouds are drifting and the dew is delicate? Poetry has a rhythm of ambiguity, subtlety, conciseness, and sensuality that sets it apart from prose. The poem is not narrative, the symbol has few lines, and the lyrical quality is like the scent that softly wafts from the careless flower and causes us to pause. The reader is immediately struck by this dual structure's delicate breathing. Tran Le Khanh's soft poetry, fluttering with symbolism, unlocks the realm of sophisticated aesthetics.

R. Jakobson, a notable representative of Russian Formalism, stressed the power of choice as an inherent quality of poetry while considering the poetic function (as opposed to prose, which is a combined operation). In order to promote poetic thought, poetry into text, and the artistic world, Tran Le Khanh has chosen the dual symbol. This implies that the poet shouldn't requisition too many words, images, or events, but instead should concentrate on honing the symbol:

 

in winter

to grow from a wilted branch

a wilted bough

waits for wind from the East

(romance)

 

The dry branch serves as a metaphor in this situation. The reader is brought to two extremes by the dual method: life and death. Romance, which refers to the wish to live but the reality of death, is the name of the poetry. As a result, that layer of dual meaning keeps becoming entwined in people's emotions and makes each of us want to live, love, and enjoy life. Although the meaning of the sign is more concise, the context of the east wind is nevertheless a difficult notion to grasp. Poetry oscillates between those two polarities like a silent plastic circuit: appearance is death, truth is life. The options available to Tran Le Khanh were spring, dry branches, and branching, but they would be too obvious. In order to dream of a miracle concealed behind death, he destroyed all traces of existence. It is the poet's responsibility to consider these options carefully before settling on the one that best captures the sentiment.

Poetry's symbols are like an echo that continues to reverberate in readers' hearts. In terms of meaning, it is not a complete and stable reality. In many cultural contexts, a symbol's life is always a process of establishment, preservation, and creation. The use of symbols takes poetry beyond the typical description—romantic poetry's strong suit—and into symbolic value. The poetry that permeates the air is a metaphor for the beauty of ambiguity, multi-meaning, musical richness, and calm profundity. With each symbol having a small amount of detail, Tran Le Khanh enjoys writing brief poems. Creating dual nuances is the ultimate idea for producing that quiet, deep “echo.”

Like a smile that blends in with the grandeur of a soft autumn, a shadow that stands silently next to us, a newborn rose that stays up all night anticipating a clear morning, or a leaf that falls over the water's surface... The succinct poems of Tran Le Khanh allow us to experience each moment, to hazily but really feel the life in each breath and in each rhythm. In the middle of these resonances, the reader pauses to consider each symbol and its parallel development in order to identify the shared artistic inspiration from the poet's soul for himself. The brilliance of reading these poetry is that via this sharing, the symbols are given new life in our souls and take on a dynamic beat unique to each reader.

Dang Ngoc Khuong, PhD (The Foreign Language Gifted High School, VNU-ULIS)

 

Đăng kí nhận tin

Hotline: 0912.568.999
Chat tư vấn ngay messenger zalo