![]() Hiện chưa có sản phẩm |
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng | Thanh toán |
Tập thơ "Xứ rung một ngọn mây" của Trần Lê Khánh
Trần Lê Khánh là một doanh nhân, vị trí ấy dường như xác lập tư thế, tâm thế của anh khi bước vào văn chương - kẻ ngoại đạo. Văn chương là một cõi giới khác, một tạo dựng khác, song hành nhưng không song trùng. Ngoại đạo không có nghĩa là không thể đến với đạo. Những tập thơ như Lục bát múa (2016), Dòng sông không vội (2017), Ngày như chiếc lá (2018), Lục bát Múa trọn bộ (2018), Giọt nắng tràn ly (2019), Xứ - Rung một ngọn mây (2020), Sự bắt đầu của nước (Việt - Anh, 2021) đã cho thấy phẩm chất thi sĩ bên trong con người Trần Lê Khánh. Rất có thể, ngày kia, chẳng ai còn nhớ đến một doanh nhân nữa, nhưng tuổi tên thi sĩ vẫn còn trong ký ức nhân gian.
------
Lãng mạn, nếu hiểu như một phẩm tính của con người, thì đó là sản phẩm của những tâm hồn luôn có xu hướng thoát ra, vượt lên khỏi hiện thực. Chủ nghĩa lãng mạn đúng ra chỉ là một trào lưu văn học có tính giai đoạn (Thế kỷ XIX ở phương Tây) với đặc thù khuếch trương phẩm chất này ở con người, nâng lên thành các phạm trù đặc trưng, nguyên lý sáng tạo, chống lại biểu hiện duy lý cứng nhắc của chủ nghĩa cổ điển và tinh thần duy thực của chủ nghĩa hiện thực. Từ trong bản chất tồn tại của nhân loại, lãng mạn là thuộc tính thường hằng, nơi thế giới tinh thần gắn với biên độ tự do và cường độ dạt dào của cảm xúc được tái hiện bằng tưởng tượng, liên tưởng mơ mộng.Từ cách hiểu này, có ai không lãng mạn? Có thi sĩ nào không lãng mạn? Dẫu vậy, cái lãng mạn của loài người khi đi vào thơ lại mang dấu ấn của từng cá nhân. Có thể, đó là nét lãng mạn mơ hồ khói sương Nghi Tàm trong thơ Mai Văn Phấn. Có thể, đó là nét lãng mạn kỳ vĩ của dòng sông dâng lên ngang trời trong hoài niệm nhớ nhung của Nguyễn Quang Thiều. Có thể, đó là mưa tháng giêng trên vai người đi lễ chùa trong thơ Nguyễn Việt Chiến. Có thể, đó là chất lãng mạn trong ưu tư khắc khoải của Trương Đăng Dung… Và, ở đây, nơi những tập thơ của Trần Lê Khánh, ta cảm nhận một nhánh lãng mạn mọc lên từ huyền bí.
1. Lãng mạn huyền bí trong cách nhìn về thế giới
Xét ra, sự khác biệt trong sáng tạo nghệ thuật bắt nguồn từ con mắt khác, cái nhìn khác của chủ thể về thế giới. Vẫn là trời đất ấy thôi, nhưng trong cảm quan Trần Lê Khánh, dường như có một bầu không khí huyền bí bao bọc lấy tất cả. Tâm hồn lãng mạn của thi sĩ đập cánh về phía ấy, lần ra những bí ẩn, gọi tên những khoảnh khắc, những mối dây liên kết nhiệm màu dệt nên cõi sống. Sự huyền bí nằm trong nguyên ủy của tồn tại, nhưng, nhờ có tưởng tượng thấm đẫm cảm xúc của thi nhân mà thế giới cất lời:
đêm thanh trong ánh trăng mềm
áng mây lặng lẽ tan thêm một lần
(Xứ 2)
Điều huyền bí vượt ra khỏi giới hạn của lý trí hay đúng hơn là nó từ chối những rạch ròi sáng rõ mà thiển cận của trí não. Sự lãng mạn là cây cầu dẫn đến thế giới huyền diệu, bí ẩn đó. Giữa đêm và trăng, giữa ánh trăng mềm và áng mây lặng lẽ, có điều gì gắn kết, tương thông? Có lẽ, đó là sự nhiệm màu của tự nhiên, Trần Lê Khánh đã cấp cho các thực thể tự nhiên một mối quan hệ, một lớp nghĩa mơ mộng, trữ tình hóa thế giới ấy bằng chính tâm hồn lãng mạn của mình. Trăng mềm hay lòng người mềm lại trước ánh trăng? Mây lặng lẽ tan trong ánh trăng lụa là hay mộng mơ thi sĩ ngỡ rằng trăng mây đang quấn quyện, hòa lẫn vào đêm thanh? Dẫu sao, một thế giới đã hiện ra trong thơ Trần Lê Khánh. Ai biết vì sao mây tan, chỉ thi sĩ mới nhận ra hơi thở diệu kỳ của sự sống trong bước chuyển mềm mại của trăng và mây. Trong một trạng thái cảm nhận khác, mây trăng dường như còn nặng mang trong lòng nó những vấn vương từ tiền kiếp:
mây
ủ trăng
chín dần
nghìn năm còn đắng
(Vị đêm)
Phải nói, con mắt nhìn trăng và mây của Trần Lê Khánh đầy mơ mộng. Hẳn nhiên, vị đêm là vị của lòng người giãi bày lên cảnh vật, như Tố Như từng viết (Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ). Thế nhưng, cái đắng của nghìn năm đã chất chứa lẽ huyền bí siêu vượt mà một kiếp người không thu vén vẹn tròn. Là duyên hay là nợ, đất trời vẫn ấp ủ những điều khiến con người nhìn vào đó mà nuôi mơ mộng:
Mây
Nhè nhẹ thở
Trong một
Giọt sương
(Mãi mãi)
Chất lãng mạn huyền bí trong tâm hồn thi sĩ của Trần Lê Khánh được phát huy trong những liên tưởng về hơi thở của đất trời vạn vật như thế. Làm sao có thể nhận ra hơi thở nhè nhẹ của mây trong một giọt sương nếu chẳng phải một tâm hồn tinh tế, đầy mơ mộng như thi sĩ. Anh gọi đấy là “mãi mãi” bởi lòng yêu sống và nhận ra cái sống vẫn đang hiện diện nhiệm màu trong thế giới xung quanh con người.
Thế giới trong thơ, về thực chất là hình ảnh phản chiếu của tinh thần thi sĩ, nó là sản phẩm của trí tưởng và xúc cảm, mang đậm dấu ấn cá nhân, vận hành thông qua hình tượng, nhịp điệu. Sự huyền bí là màn sương phủ lên thế giới lãng mạn của Trần Lê Khánh. Nó cho thấy một nỗi khát khao vượt thoát từ sâu trong bản thể, phản ứng lại thực tại biểu kiến, rất có thể đã đày đọa thi nhân trong những niềm tuyệt vọng. Với người lãng mạn, thi giới là bờ bến, thi giới là nơi tựa nương, cứu rỗi:
mùa đông
đón gió đông về
cành cây khô
mọc ra một nhánh cây khô
(Lãng mạn)
chừng nhành gai nhọn xa xăm
vết thương của gió thì thầm da non
(Xứ 45)
Gai nhọn đã xa, có thể, những đớn đau xước xé cũng đã xa. Trên thân thể phóng túng của gió, vết thương thì thầm da non. Hình tượng đẹp nâng đỡ một tứ thơ đẹp, vừa dìu dịu mơn man, vừa hân hoan reo vẫy. Trong nhịp điệu lành hiền của lục bát, Xứ hiện ra mơ màng một niềm yêu thương sau những thương tổn ở đời.
Chất lãng mạn huyền bí trong thơ Trần Lê Khánh không phải là những sắc thái ma thuật, huyền thoại. Như đã nói ở trên, thi nhân phát hiện ra sợi dây liên kết làm nên điều kỳ diệu của sự sống. Nhờ vào đôi mắt ấy, thái độ ấy, thế giới là thế giới của mơ mộng, mơ tưởng, bù đắp cho những thiếu sót của con người trong giới hạn cỗi cằn hoang phế. Hoàn nguyên một cõi sống diệu kỳ bằng năng lực nội tâm chính là dự phóng làm nên thi sĩ Trần Lê Khánh. Có hay không trong những bài thơ ngắn của Trần Lê Khánh, một nỗi ước ao thầm lặng gửi vào trăng mây sông nước, gửi vào thăm thẳm thời gian? Nhánh cây khô hay giọt nước mắt, vị đắng nghìn năm hay khoảnh khắc nụ hoa thấm vào mùa xuân như giọt máu hồng đã đánh thức phần linh diệu trong tâm hồn con người. Vạn vật chẳng vô tri sao lòng người lại vô tình? Sự sống, bản thân nó đã ẩn mang những điều phi thường, huyền nhiệm, chỉ là lòng người có đủ tinh tế để nhận ra hay không:
biển biết bí mật
lũ hải âu
mải mê tha muối bỏ xuống đại dương
vì kiếp trước lỡ tin nước mắt
(Biển đau mặn)
mùa đông trắng xóa
nụ hoa nảy mầm
như giọt máu
thấm vào xuân
(Vệ thần)
Lãng mạn huyền bí là một chiều kích sâu hơn, xa hơn của lãng mạn. Chính vì thế, với nhánh này, chất tượng trưng đã ngưng kết trong ẩn dụ và các biểu tượng. Dĩ nhiên, ngay sau đó chủ nghĩa tượng trưng đã chê bai chủ nghĩa lãng mạn bởi sự dễ dãi của cảm xúc, sự dài dòng của lời lẽ hay sự lộ liễu của các thực tại được biểu hiện. Nhưng, làm sao chủ nghĩa tượng trưng không biết ơn lãng mạn cho được? Hãy đọc vào những bài thơ ngắn của Trần Lê Khánh để thấy chất lãng mạn huyền bí trong thơ đã ngân vọng sang bờ tượng trưng:
đêm bồi bóng tối
lên đôi bờ thời gian
cho màu mỡ
lối thiên đàng
(Phù sa)
trăm năm rồi
tiếng chuông chiều
rót không đầy
gợn gió phiêu phiêu
(Vũ trụ)
Có lẽ, để tiết chế nguồn mạch lãng mạn, Trần Lê Khánh đã chọn thể thơ tự do ngắn. Cùng với đó, khi biểu đạt thế giới, thi sĩ lựa chọn biểu tượng thay vì đổ tràn cảm xúc lên hình ảnh, câu chữ. Thế giới trong cảm quan lãng mạn huyền bí của Trần Lê Khánh kín nhiệm hơn, lặng lẽ hơn, chừng mực hơn, nhưng không vì thế mà ít đi năng lực biểu hiện. Giữa cái bền bỉ của trăm năm (thời gian phiếm chỉ), sự nhẫn nại của tiếng chuông và gợn gió phiêu diêu là một mối quan hệ bất cân xứng. Bất cân xứng mà không thiên lệch, bởi lẽ, tự nhiên có bao giờ so đếm đâu, lấy gì để đo đếm tự nhiên? Vũ trụ là một thực thể vô cùng, những nỗ lực (tiếng chuông) làm sao rót đầy hư không diệu vợi của đất trời vô thủy vô chung.
2. Lãng mạn huyền bí trong cách nhìn về con người
Thi giới của một nhà thơ trữ tình không thể vắng bóng con người (đặc biệt là người tình), dẫu con người ấy cũng là hình bóng của quan niệm từ chủ thể. Những nhà văn lãng mạn tin vào đạo lý của trái tim. Henri Benac đã nói như thế trong cuốn Guide des idées littéraires (Dẫn giải ý tưởng văn chương, Nguyễn Thế Công dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005, tr. 753). Với Trần Lê Khánh, cảm quan lãng mạn huyền bí giúp anh nhìn về phía tha nhân một cách linh diệu, giàu mĩ cảm. Có lẽ nhờ vậy, khả năng thanh tẩy trong thơ Trần Lê Khánh khá cao. Thanh tẩy để lòng người trở lại dịu dàng, say mê hơn, từ đó mà tính người và tình người được ân iu, vỗ về nhiều hơn.
Quả là như vậy, con người trong thi giới Trần Lê Khánh luôn được rọi chiếu bởi cái nhìn lãng mạn, đầy mơ mộng. Năng lượng từ trái tim thi sĩ đã cứu rỗi con người bằng chính đức tin đặt vào nhân tính:
nhìn người trên đỉnh mùa đông
áng mây lặng lẽ trổ bông rồi tàn
cốc trà nguội đêm dần tan
hay ai làm đứt một làn khói xanh
(Xứ 42)
nghìn năm gieo lại đức tin
trong khóe mắt giọt nước in bóng gần
con đường giờ đã thanh tân
ta trồng lên đó dấu chân của mình
(Xứ 86)
Phải chăng cõi đời đã cạn kiệt nhân tính, đã nguội lạnh niềm thiết tha nồng ấm? Mượn thiên nhiên để nói về con người, nhưng cũng là lấy thiên nhiên nhắc nhở con người. Áng mây trổ bông, làn khói xanh trên chén trà chẳng phải là một tín hiệu của sự sống huyền bí sao? Cái huyền bí ẩn trong giọt nước mắt lấp lánh đức tin có khả năng thanh tân hóa những cỗi cằn, khô hạn của nhân gian. Ai đã đi qua con đường khổ-hạnh của kiếp sống, có bao giờ nhìn lại những dấu chân mọc lên từ nghìn năm để tin vào nước mắt? Với thi sĩ, ướm trồng dấu chân của mình là gieo lại đức tin và hi vọng, gây dựng một trú xứ cho bản thân, đồng thời đợi chờ những nối kết thiêng liêng từ tha nhân.
Trong mộng mơ của kẻ lãng mạn, trong vương quốc của thi ca, người tình là một niềm gửi trao kỳ diệu. Có cảm giác như Trần Lê Khánh đã bắc một dải mây nối về tiền sử khi dựng nên ngôi đền của loài người, mà em - người tình là cội nguồn trông giữ:
trong ngôi đền
của loài người
em cầm bó đuốc
lau sạch đêm
(Her job)
Không khí huyền bí tỏa ra từ ngôi đền thiêng đã chứng thực cho mộng mơ của thi sĩ. Những vết đêm được lau sạch hay những đày đọa khổ ải, mê lầm, tục lụy của kiếp người được rũ bỏ, hoàn nguyên một bản dạng thanh sạch? Nữ tư tế của ngôi đền loài người với bó đuốc trong tay sáng lên trong thơ Trần Lê Khánh. Đức tin là ngọn nguồn của lửa sáng, và em là niềm hi vọng trong đêm dày thăm thẳm. Như một bí tích tôn giáo về người đàn bà đầu tiên, hình tượng người tình trong thơ Trần Lê Khánh được bao bọc bởi không khí huyền thoại:
người trần
chở bùn lên địa đàng
em trồng
trái cấm nhân gian
(Hàng thật)
Những tình thế đối lập được tạo dựng trong tưởng tượng của thi nhân (mĩ cảm đối lập vốn là đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn). Địa đàng bị tha hóa bởi trần gian hay những giá trị vĩnh hằng của nhân gian bị loài người làm cho bụi bạchoen ố? Khắc khoải ấy đẩy mĩ cảm về hai cực, tuyệt vọng và hi vọng. Lau sạch đêm, gột rửa bùn trần, trồng lại trái cấm nhân gian phảng phất một dự cảm tận thế - khải huyền. Điều kỳ diệu là Trần Lê Khánh nhìn thấy ở em nguồn sức mạnh của đức tin, của thanh tân. Thế nên, có lẽ loài người sẽ được cứu rỗi.
Nữ tính là một sắc thái huyền bí bởi những điều kỳ diệu mà nó mang đến cho loài người. Thi sĩ lãng mạn chú ý đến nữ tính, tình yêu như là một cách để phục sinh thế giới. Người tình trong cảm quan thi sĩ mang cõi lòng từ bi, mang bàn tay vun trồng, cất giữ nụ hôn trên vành môi ngoan:
em ngồi dệt mộng thần tiên
ta chêm ngọn gió lên viền áo xanh
nụ hôn là của để dành
em trồng một nụ lên vành môi ngoan
(Xứ 90)
em
mở lòng từ bi
trăm năm hồ điệp
lơ là lối đi
(Mai)
Những bài thơ thật đáng yêu, nhưng hơn hết, nó làm lòng ta thanh tân trở lại. Nếu chẳng may không tìm thấy mộng thần tiên thì màu áo xanh vẫn gợi lên bao niềm lưu luyến (Lệ ai chan chứa hơn người/ Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh- Tỳ bà hành, Bạch Cư Dị; Tuyến in sắc ngựa câu giòn/ Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời/ Nẻo xa mới tỏ mặt người/ Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình/ Hài văn lần bước dặm xanh/ Một vùng như thể cây quỳnh cành dao- Truyện Kiều, Nguyễn Du; Ta về một bóng trên đường lớn/ Thơ chẳng ai đề vạt áo phai- Ta về, Tô Thùy Yên). Ngọn gió có kể ta nghe về niềm luyến lưu trong viền áo xanh ấy không? Chẳng biết, nhưng môi ngoan với nụ hôn để dành quả thực đã khiến ta say mê cuộc đời này biết bao nhiêu. Say mê ấy làm lòng người thanh sạch, say mê ấy cho người ta tồn tại, và điều huyền bí hiện ra: say mê đã thức tỉnh con người.Em đại diện cho nữ tính, là cơ hội cho sự sống sau những tàn hủy mà loài người đã tự mình gây nên. Cái nhìn này ở Trần Lê Khánh thực sự đã đưa nhân vật trữ tình vào ngôi đền thiêng của giá trị nhân loại - người phục sinh.
3. Lãng mạn huyền bí - ngọn nguồn của đạo lý lớn trong tinh thần thi sĩ
Thơ ca không răn dạy cuộc đời, không lớn tiếng tuyên ngôn (dẫu có nhiều người tuyên ngôn về thơ rất to tát). Lặng lẽ, thơ ngấm vào lòng người trong niềm xúc cảm sâu xa. Tôi muốn dành một phần ngắn này để nói về đạo lý của thơ Trần Lê Khánh, không phải để thay anh lên giọng, mà để nhận ra, phía sau cái nhìn lãng mạn huyền bí về thế giới và con người là tư tưởng nghệ thuật của thi sĩ.
Tư tưởng nghệ thuật không phải là thứ có sẵn, cũng không phải là thứ đến ngay từ thuở ai đó bước chân vào văn giới (cái mà anh ta có sẵn, ban đầu chỉ là quan niệm, nó cần được giũa mài, thử thách, kiểm nghiệm). Tư tưởng nghệ thuật là một đúc kết, một lắng đọng chắt lọc từ hành trình của tư duy và mĩ cảm, định hình trong một đời sáng tác hoặc một chặng đường sáng tạo của người nghệ sĩ. Trần Lê Khánh nhìn về thế giới và con người bằng đôi mắt mộng mơ, tràn đầy niềm hạnh phúc vì phát hiện ra lẽ huyền nhiệm của cõi sống này. Chính vì thế, đạo lý trong thơ thành hình và được hun đúc chính là niềm say mê sự sống, trân trọng những giá trị thiêng liêng, vĩnh hằng của tồn tại. Ai đó bảo vì Trần Lê Khánh là kẻ ngoại đạo nên giữ được nhung tuyết cho tâm hồn mình. Tôi nghĩ khác, Trần Lê Khánh tái tạo nhung tuyết cho cuộc đời khi đã nhận ra sự trơ lì, vô cảm hay sờn mòn của lòng người. Trân trọng sự sống, dành cho sự sống ánh mắt say mê cùng đức tin dạt dào, thơ Trần Lê Khánh nuôi dưỡng trong lòng nó mạch nguồn của yêu thương đắm đuối. Sống là diệu tuyệt, chỉ riêng điều đó đã là huyền bí. Nhưng, sẽ ra sao nếu loài người mất đi khả năng cảm nhận sự huyền diệu ấy. Anh và em, những kẻ đầu tiên hay những kẻ sau cùng, trong mộng mơ lãng mạn, đang dành dụm thanh tân cho những mùa phục sinh.
Lãng mạn là phẩm tính thường hằng của con người, nhưng nó nổi trội hơn, mạnh mẽ, quyết liệt và say mê hơn ở thi sĩ - nghệ sĩ. Mang trong lòng ngọn gió phiêu diêu phóng túng ấy, Trần Lê Khánh nghiêng về phương huyền bí, như một cách để định hình cá tính, định hình những mơ tưởng thi ca. Trăm năm một cõi mông lung (Đầu tư) là thế giới “sinh lời” của Trần Lê Khánh. Thơ ca làm ngưng đọng những cơn say vượt thoát, tượng hình những ảo ảnh chân thực của trí tưởng tượng. Có lẽ, nhờ đó, thi ca giữ lại được con người trong sự hủy tạo miệt mài của thời gian.
T.S Hồ Quang Hòa - ĐHQG Hà Nội
REVIEW
The mysterious romance in Tran Le Khanh's poetry
Tran Le Khanh is a businessman, which appears to shape his posture and attitude when he enters literature - as an outsider. Literature is another world, another creation, parallel but not identical. Being outsider does not preclude one from seeking the Way. Six-eight poem collections such as như The Dance of Luc Bat (2016), The River Never Hurries (2017), The Day is a Leaf (2018), The Dance of Luc Bat, Full set (2018), The Sunlit Overflows the Glass (2019), The Place of Nowhere (2020), The Beginning of Water (Vietnamese - English bilingual, 2021) have revealed Tran Le Khanh's poetic quality. Chances are, no one will remember him as a businessman one day, but the poet's name will live on in the collective memory of the world.
------
If understood as a human quality, romance is the result of souls that constantly seek to escape and transcend reality. Romanticism is essentially a literary movement of the nineteenth century in the West, with the characteristic of amplifying this quality in people, elevating it to specific categories, and promoting creative principles in opposition to the rigid rationalist expression of classicism and the realist spirit of realism. Romance is a permanent attribute of human existence, where the spiritual world associated with the free range and abundance of emotions is reproduced by imagination and dream. Who is not romantic in this interpretation? Is there a poet who is not romantic? Perhaps it is the hazy romance of Nghi Tam that pervades Mai Van Phan's poetry. Perhaps it is the magnificent romance of the river rising to the sky in Nguyen Quang Thieu's nostalgia. Perhaps it is the January rain on temple-goers' shoulders in Nguyen Viet Chien's poetry. Perhaps it is the romantic aspect of Truong Dang Dung's anxiety... And, in Tran Le Khanh's poem collections, we sense a romance branch emerging from the mystery.
1. Mysterious romance in worldview
After all, the distinction in artistic creation stems from a different perspective on the subject of the world. It is still the same heaven and earth, but there appears to be a mysterious atmosphere enveloping everything, according to Tran Le Khanh. The romantic soul of the poet flaps its wings in that direction, uncovering mysteries, naming moments, and the magical bonds that weave life. The poet's emotional imagination allows the world to speak, despite the fact that mystery is at the heart of existence:
gentle night is contained in soft moonlight
the cloud quietly dissolves one more time
(The Place of Nowhere 2)
The mystery transcends reason, or rather rejects the mind's bright and short-sighted clarity. The bridge to that magical, mysterious world is romance. Is there anything that connects and communicates between the night and the moon, between the soft moonlight and the quiet clouds? Tran Le Khanh has given natural entities a relationship, a layer of dreamy meaning, lyricizing that world with his own romantic soul, perhaps a miracle of nature. Is the moon soft, or do people's hearts soften in the presence of moonlight? Is the cloud gently melting in the silk moon light, or is the poet dreaming that the moon and clouds have become entwined and mixed into the clear night? In any case, Tran Le Khanh's poetry depicted a world. Who knows why the clouds vanish; only the poet recognizes the miraculous breath of life in the moon's and clouds' soft transition. In another perceptual state, the moon cloud appears to be carrying the entanglement of its previous life in its heart:
clouds
ripen for a thousand years
ferment the moon
so bitterness remains
(taste of night)
Tran Le Khanh's eyes are filled with dreams as he gazes at the moon and clouds. Of course, when it comes to the scene, the taste of the night is the taste of the human heart, as To Nhu once wrote (Before the sad eyes there cannot be a happy landscape). However, a thousand years of bitterness contain a transcendent mystery that a human life cannot fully collect. Whether it is fate or debt, heaven and earth still treasure the things that make people dream:
the cloud
breathes
inside a drop
of dew
(for ever)
Such associations of the breath of heaven and earth promote Tran Le Khanh's poetic soul's mysterious romance. How can one recognize the gentle breath of clouds in a dewdrop if not a delicate soul, full of dreams like a poet. He calls it “forever” because of his love of life and realizes that life is still magically present in the world around people.
In poetry, the world is essentially a reflection of the poet's spirit; it is a product of imagination and emotion, imbued with personal imprints, and operating through images and rhythms. The mystery is the mist that shrouds Tran Le Khanh's romantic world. It demonstrates a desire to escape from deep within oneself in response to apparent reality, which may have condemned the poet to despair. Poetry is the shore for the romantic, the refuge and salvation:
in winter
to grow from a wilted branch
a wilted bough
waits for wind from the East
(romance)
perhaps the thorns seem far away
the wound of the wind whispers to its own healing skin
(the Place of Nowhere 45)
The sharp thorns are far away, and perhaps the pain of tearing is as well. The wound whispers young skin on the loose body of the wind. The lovely image supports a lovely poetic idea, tenderly caressing and joyfully waving. In the gentle rhythm of the six-eight poetry, a love appeared dreamily amidst The Place of Nowhere after the hurts of life.
Tran Le Khanh's poetry contains no magical or mythical nuances in its mysterious romance. As previously stated, the poet discovers the link that creates the miracle of life. The world is a world of dreams and fantasies, compensating for human shortcomings in the barren and derelict limits, thanks to those eyes, that attitude. Tran Le Khanh's project is to return to a magical life of inner power. Is there a silent longing sent to the moon, clouds, rivers, and the abyss of time in Tran Le Khanh's short poems? The bitter taste of thousands of years, or the moment when flower buds seep into the spring like a drop of red blood, have awakened the magical part of the human soul. Why are people's hearts so heartless when things are not senseless? Life has hidden extraordinary and mysterious things; the question is whether the human heart is sensitive enough to recognize them:
the sea knows the secret
that seagulls
must endlessly carry salt to the ocean
because they were blinded in a previous life to believe in tears
(the sea’s salty pain)
vast white winter
a flower blossoms
a drop of blood
absorbed into spring
(the angel guardian)
Mystical romance is a more distant, deeper dimension of romance. As a result, the symbolic substance has been condensed into metaphors and symbols with this branch. Of course, symbolism soon mocked romanticism for its ease of emotion, verbosity of words, or openness to manifested realities. But how could symbolism not be grateful in a romantic way? Continue reading Tran Le Khanh's short poems to see the mysterious romance that echoes to the symbolic shore:
night feeds the darkness
to form two shores of time
enriching
the road to paradise
(alluvium)
for a hundred years
dusky evening sounds of the bell
still not full
a breeze
(universe)
Tran Le Khanh may have chosen short free verse form to moderate the romantic source. In addition, when expressing themselves, poets use symbols rather than pouring emotions onto images and words. The world in Tran Le Khanh's mysterious romantic sense is more secretive, quieter, and moderate, but not less expressive. An asymmetrical relationship exists between the tenacity of a hundred years (indefinite time), the patience of the bell, and the fluttering wind. Because nature never compares and cannot be measured, it is disproportionate but not biased. The universe is an infinite entity, and the efforts (bells) to fill the wondrous space between heaven and earth have no beginning and no end.
2. Mysterious romance in the outlook on humanity
A lyricist's poetic world cannot exist without a person (especially a lover), even if that person is also a shadow of the subject's conception. The morality of the heart is important to Romantic writers. In his Guide des idées littéraires (Explaining literary ideas, translated by Nguyen The Cong, Giao duc Publishing House, Hanoi, 2005, p. 753), Henri Bénac stated as much. Tran Le Khanh's mysterious romantic sense aids him in looking at others in a magical, rich way. Perhaps as a result of this, Tran Le Khanh's poetry has a high ability to purify. Purification softens and ignites people's hearts, making humanity and humanity more cherished and comforted.
Indeed, in Tran Le Khanh's poetic world, people are always illuminated by a romantic and dreamy look. The energy from the poet's heart has saved people through faith in humanity:
look at the man on top of the winter mountain
the cloud quietly blossoms and then it fades
the cup of tea cools the night dissolves
someone cut the smoke
(the Place of Nowhere)
(Xứ 86)
the thousand years seed the faith again
at the corner of her eye the tear prints a close shadow
the street becomes fresh
I plant my foot prints there
(the Place of Nowhere 86)
Is the world's humanity exhausted, its warm enthusiasm waning? Nature is used to talk about people, but it is also used to remind people of nature. Is the blooming cloud and the green smoke on the tea cup not a sign of mysterious life? The mystery in the sparkling tears of faith has the power to renew the world's barrenness and aridity. Who has walked the ascetic path and ever looked back at the footprints that sprouted from thousands of years of tears? Planting their own footprints is a way for poets to sow faith and hope, build a place for themselves, and wait for spiritual connections from others.
In the realm of poetry, the lover is a magical consignment in the romantic's dream. When Tran Le Khanh built the temple of mankind, it appears that he created a band of clouds connecting to prehistory, which she - the lover - is the source of:
in the temple
of human beings
she holds the torch
to clean the night
(her job)
The poet's dream is confirmed by the mysterious atmosphere emanating from the sacred temple. Are the stains of the night washed away, or are the torments, delusions, and filthiness of human life washed away, restoring a pure identity? Tran Le Khanh's poetry depicts a priestess of the mankind temple holding a torch. Faith fuels the bright fire, and she is the beacon of light in the dark night. The image of a lover in Tran Le Khanh's poetry is surrounded by a mythical atmosphere, as if it were a religious sacrament about the first woman:
people of the earth
carry mud into heaven
where a single girl
plants her own forbidden fruit
(real)
In the poet's imagination, contrasting situations are created (the aesthetic opposite which is characteristic of romanticism). Is the world corrupting Paradise, or is humanity tarnishing its eternal values? Because of this anxiety, the aesthetic is pushed to two extremes: despair and hope. Wipe away the bare mud, replant the forbidden fruit of the human world, with a hint of the world's end - apocalypse. The miracle is that Tran Le Khanh sees in her the source of faith and youth. As a result, humanity may be saved.
Because of the wonders it brings to humanity, femininity is a mysterious shade. Romantic poets emphasize femininity and love as a means of reviving the world. The poet's lover has a compassionate heart, a skilled nurturing hand, and a kiss on the lips:
she sits to weave her angelic dream
I wedge a wind onto the blue edge of cloth
kisses are the saving wealth
she plants one of them on her meek lip
(the Place of Nowhere 90)
she
opens compassion in her heart
a hundred-year-old butterfly
jukes to the flower not minding its path
(mai flower)
Poems are lovely, but they most importantly refresh our hearts. If you cannot find the fairy dream, the color of the blue shirt still brings back memories. (It had to be the Jiang Prefecture’s Master of the Horse/ So drenched in tears was his blue robe - The Ballad of the Wandering Lute, Bai Yuji; His pony was beautiful and as white as snow/ His garments were a mixture of the hues of grass and sky/ From a distance he recognized the sisters/ He dismounted and softly strolled to meet them - The Tale of Kieu, Nguyen Du; I return as a shadow on the main road/ No one write poetry on a faded shirt - I return, To Thuy Yen). Is the wind telling us something about the nostalgia in that blue shirt? Not certain, but good lips with a saving kiss make us fall in love with this life so much. Passion purifies people's hearts, passion allows people to exist, and the mystery emerges: passion awakens people. She represents femininity and is a chance for life after the destructions that man has caused himself. Tran Le Khanh's portrayal brought the lyrical character into the sacred temple of human values - the resurrected man.
3. Mystical romance - the source of great morals in the poet's spirit
Poetry does not teach life and does not proclaim it loudly (although there are many people who make great statements about poetry). Poetry quietly infiltrates people's hearts with deep emotions. I would like to devote this brief section to discussing the morality of Tran Le Khanh's poetry, not to represent him, but to recognize that the poet's artistic thought lies behind the mysterious romantic view of the world and people.
Artistic thought is not readily available, nor does it emerge from the moment someone enters the literary world (what he has available, at first is just an idea, it needs to be sharpened, challenged and tested). Artistic thought is a conclusion, a deposition distilled from a journey of thinking and aesthetic, shaped in an artist's creative life or journey. Tran Le Khanh looks at the world and people through dreamy eyes, filled with joy at discovering the mystery of this world. As a result, the morality formed and molded in poetry is the passion for life, the appreciation of the sacred and eternal values of existence. Someone once told Tran Le Khanh that because he is an outsider, he can keep the smooth snow for his soul. Tran Le Khanh, I believe, recreates the velvet of life when he recognizes the inertness, insensitivity, or weariness of the human heart. Tran Le Khanh's poetry nurtures the source of passionate love in its heart by appreciating life, giving life passionate eyes, and abounding faith. Life is wonderful, and that in itself is mysterious. What if humans lost their ability to perceive magic? In romantic dreams, you and I, first or last, are saving purity for the resurrect seasons.
Romance is a permanent human quality, but in poets and artists, it is more prominent, powerful, fierce, and passionate. Carrying that wandering wind, Tran Le Khanh leans towards the mystical to shape his personality and poetic fantasies. Tran Le Khanh's "profitable" world is hundred years is a world of infinity (investment). Poetry prevents drunkenness by imagining true illusions of the imagination. Poetry, perhaps thanks to that, sustains people in the agonizing destruction by time.
Ho Quang Hoa, PhD - Vietnam National University, Hanoi