![]() Hiện chưa có sản phẩm |
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng | Thanh toán |
Mình đã đọc nhiều bài thơ của anh Nguyễn Quang Thiều từ những năm trước, nó như có tính “dự báo”, “dọn đường” cho trường ca “Lò mổ” ra đời tạo được tiếng vang. Và thi ca với sứ mệnh thiêng liêng của nó, qua trường ca “Lò mổ” cũng sẽ vượt qua biên giới của lý trí để tới với bạn bè năm châu bốn biển.
Ở bài viết nhỏ này chỉ là những cảm nhận cá nhân sau những ồn ào tranh cãi về “Lò mổ”, trân trọng mọi ý kiến, không nhằm ninh hót hay đả kích một ai.
Theo nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cho biết, anh hoàn thành trường ca “Lò mổ” từ năm 2016, và sau khi chỉnh sửa, vẽ tranh minh họa thì “Lò Mổ”mới ra mắt bạn đọc khá hoành tráng ở NXB Hội Nhà văn VN - 65 Nguyễn Du, Hà Nội, với đông đảo khách tham dự. Sau khi ra mắt sách, đã có nhiều bài viết ca ngợi và đâu đó cũng có những tiếng nói “phản biện” với một tâm thế mang dấu ấn cá nhân của một cách đọc “chụp mũ” đã lỗi thời cùng với sự đố kỵ. Việc khen chê một tác phẩm là chuyện bình thường trong giới học thuật xưa nay. Song, để khen cho đúng, chê cho đúng không phải chuyện dễ, thậm chí một số người còn “ăn theo”, “nói leo” rồi “ném đá” tác giả, tác phẩm khi chưa hiểu hết những thông điệp mà tác giả gửi vào tác phẩm mang tính “dự báo” của chức năng văn học. Nhưng khen chê thế nào cho đúng còn tùy thuộc cái Tâm, cái Tầm của mỗi người đọc. Có lẽ ta nên nhớ lời nhà hiền triết Tuân Tử (313 - 235 trước Công nguyên), người Trung Hoa, đã dạy: “Người chê ta phải là thầy ta, người khen ta phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ chính là kẻ thù của ta vậy”. Người thầy thường hơn trò nhiều mặt nên đánh giá đúng được các mặt mạnh mặt yếu của học trò để “chê cho đúng”. Người bạn thân thiết của ta thường thấy rõ những mặt thành công của ta nên “khen ta đúng”. Còn những kẻ vuốt ve, nịnh bợ lấy lòng để ta không thấy được những khiếm khuyết mà sửa chữa và ta sẽ tiếp tục mắc những sai lầm ấy thì quả là “khen đểu” rất nguy hiểm, Tuân Tử gọi đo là “kẻ thù của ta vây”. Khen đúng, chê đúng giúp ta được bài học để bước tiếp. Còn khen chê không đúng hoặc chửi bới tục tằn thì quả là thiếu thiện tâm, không văn hóa chút nào. Nó làm vàng thau lẫn lộn, đưa người ta vào “ma hồn trận” để “ma đưa lối quỷ dẫn đường” (Nguyễn Du). Nguyên nhân của những tranh cãi nằm ở nhiều phía, chủ quan và khách quan.
Trước hết là ở cách đọc. Ở trường ca “Lò mổ”- một tác phẩm có sự kết hợp giữa thơ và họa đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc. Đọc lần thứ nhất chỉ là cách đọc “bì phu” (sờ vào da của tác phẩm). Ta phải đọc lần hai, còn gọi là cách đọc “cốt nhục”, đi vào phần xương thịt của tác phẩm. Rồi đọc lần 3, hoặc lần thứ “n” – cách đọc “hút tủy” tác phẩm thì mới từng bước thấy hết cái “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời) của hình tượng thơ mang lại. Cái buồn, cái đau, cái ác, cái xấu bị đẩy lên tận cùng để cái đẹp, cái tốt nảy mầm vươn ra ánh sáng. Tính nhân văn được đưa lên một tầm cao mới. Nó là “tảng băng chìm” đang từ từ nhô lên mặt biển sau giông tố.
Đây là tác phẩm không dễ đọc, nó như một món “hàng hiệu” kén khách. Tùy vào trình độ và tâm thế mà người đọc lĩnh hội được những gì. Lâu nay một số bạn đọc quen với với lối thơ truyền thống, có vần điệu du dương, hình ảnh lấp lánh, dễ nhớ dễ thuộc, nên khi bắt gặp một loại thơ tự do viết theo lối mới thì có cảm tưởng như khi ăn cơm ta nhai phải hạt sạn, điều đó cũng dễ hiểu. Vì thế đã có nhà thơ tự xưng “dịch thơ Việt ra thơ Việt” cho dễ nghe, dễ nhớ.
Khi tôi đọc trường ca ta này lần đầu, đọc xong tôi nhắm mắt lại như bị “ma ám”, mộng mị khi bay lên chín tầng mây khi rớt xuống địa ngục. Nhưng khi tỉnh lại đọc lần hai, lần ba cho hình tượng thơ thấm vào hồn thì lúc đó khó dứt ra. Phải sống, phải trải nghiệm mới hiểu hết cái hay và sự thành công của trường ca này, và ta sẽ thấy những liên tưởng “ngoài tác phẩm” đem tới nhiều điều thú vị. Bởi nhà thơ vốn là một họa sĩ thuộc trường phái “hiện sinh” nên đã đem vào trường ca nhiều “ẩn dụ liên tưởng”. Và nếu một bạn đọc ít vốn sống, ít hiểu biết các lĩnh vực hội họa, mỹ thuật, âm nhạc… thì khó thẩm thấu hết thông điệp mà nhà thơ gửi vào tác phẩm này qua các hình tượng nghệ thuật đa chiều, đa nghĩa, nhiều khi rất siêu thực.
Sự kết hợp giữa Thơ và Họa trong “Lò mổ” là một sự tìm tòi độc đáo, mới lạ về hình thức để chuyển tải một nội dung về cảm nhận con người và cuộc sống với tất cả sự ái, ố, hỉ, nộ và bi thương như cuộc đời vốn có. Chân lý đôi khi không thuộc về số đông. Tố Hữu nói “Một người đâu phải nhân gian/ Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi”, thì nhà thơ Nguyễn Quang Thiều lại có một triết lý khác “Một con người tự do làm nên vũ trụ”. Ca dao có “Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, thì Nguyễn Quang Thiều viết: “Một cái cây tự do làm nên cánh rừng”. Tố Hữu và ca dao nói về số đông, về sức mạnh còn Nguyễn Quang Thiều lại nói về số ít nhưng có khi lại làm nên việc lớn. Chân lý không phải lúc nào cũng thuộc về số đông.
Đúng như Sê-đrin đã nói “Văn học nằm ngoài những định luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”.
Nhà thiên văn học Galilê (1564 - 1642) người Italia nói trái đất tròn và quay quanh mặt trời, nhiều người chưa tin, và Giáo hội đã kết án đưa ông vào tù. Vừa bước chân ra khải phòng xử án ông đã nói “Dù sao trái đất vẫn quay”. Và sau này điều ông nói đã thành chân lý, khoa học đã chứng minh: Trái đất tự quay quanh mình nó và quay quanh mặt trời. Vì vậy có thể một số người hôm nay cho “Lò mổ” có nhiều hạt sạn thì biết đâu sau một thời gian được bạn đọc thẩm định, rồi “mặc định” thì bạn sẽ điều chỉnh lại cách đọc, cách cảm để thấy những mặt thành công, sự cách tân thể loại và những hạn chế của trường ca này. Nhưng dù sao đi nữa thì khi chúng ta đọc và cảm cũng nên “Lấy hồn ta để hiểu hồn người” như nhà Phê bình văn học Hoài Thanh đã nói.
Còn những ai đem trào lưu của phương sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa của thế kỷ trước đã lỗi thời để mổ xẻ trường ca sáng tác theo trào lưu hậu hiện đại, hiện sinh của phương Tây thì thật khập khiễng. Và từ đó gán ghép đủ thứ từ văn học đến chính trị cho tác giả, tác phẩm, quy chiếu về hệ tư tưởng, có nên chăng? Dẫu biết rằng “Mọi lý thuyết đều là màu xám/ Chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi” (Gớt- nhà thơ Đức). Song, thời đại đã mở của với trí tuệ nhân tạo AI, với Chat GPT thì không những thơ ca mà nhiều loại hình nghệ thuật còn đổi mới và tiến xa hơn nữa. Cái vỏ của thơ ca cũng phải nới rộng biên độ để có thể chứa đựng những nội dung mới, khái niệm mới. Trong âm nhạc hiện đại cũng vậy, ngoài những bản nhạc mang giai điệu dân ca, dân vũ, hay nhạc bolero ngọt ngào êm ái của Việt Nam được đa số người lớn yêu thích thì khi nhạc Rock, Pop, nhạc giao hưởng từ phương Tây đưa vào Việt Nam lại được giới trẻ rất ưa chuộng. K.Mác cũng đã từng nói “Bản nhạc sẽ không có giá trị gì với một lỗ tai không biết thẩm âm”. Trong hội họa cũng vậy, tranh siêu thực, lập thể của một số họa sĩ Việt Nam, hoặc ảnh “khỏa thân” của nhiếp ảnh gia Thái Phiên cũng bị một số người phản đối, nhưng rồi dần dần họ sẽ hiểu ra sự cách tân, tiếp thu hội họa phương Tây. Ngay tác phẩm Truyện Kiều- tuyệt bút của Nguyễn Du, có giai thoại cho rằng, sau khi đọc Truyện Kiều, vua Tự Đức bỗng dưng đùng đùng nổi giận, ném sách xuống đất và phán: “Nếu Tố Như (tên tự của Nguyễn Du) mà còn sống, phải nọc nằm xuống đánh cho ba mươi roi”. Bởi khi miêu tả Từ Hải, Nguyễn Du đã viết: “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”, là phạm tội khi quân. Hoặc một số nhà Nho còn cho “Truyện Kiều” là “dâm thư” cấm đàn bà, con gái đọc, gọi Thúy Kiều là “con đĩ”. Nguyễn Công Trứ trong bài “Vịnh Thúy Kiều” đã lên án: “Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm”. Sau này trong bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký”, Nguyễn Du đã phải than “Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khớp Tố Như” (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/ Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Nguyễn Văn Siêu đã từng day: “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người, loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương” là để nhấn mạnh loại “Văn học vị nhân sinh”, loại “Văn dĩ tải đạo” của cha ông ta ngày xưa luôn chú trọng chức năng giáo dục tư tưởng của văn học cho con người mà quên đi chức năng thẩm mỹ của văn chương qua hình thức nghệ thuật, và phản đối loại “văn học vị nghệ thuật”.
Với “Lò mổ” là sự kết hợp rất hài hòa giữa Thơ và Họa, giữa nội dung và nghệ thuật qua 18 chương của trường ca. Nó được tóm lược qua 18 bức tranh mang tên “Nguyện cầu”, phản ánh khá rõ chủ đề của từng chương, và khi xâu chuỗi lại nó là một tổng thể khá hoàn chỉnh của một câu chuyện được diễn tả bằng “thơ tự do” bằng bút pháp thơ “hậu hiện đại”, mang hơi thở “phân tâm học” của Freud, ta không dễ gì đọc lướt để hiểu hết thông điệp của tác giả. Đọc, liên tưởng, phản biện… các tầng nghĩa chìm, nghĩa nổi sẽ từ từ hiện lên, và ta “đồng sáng tạo” cùng tác giả. Loại thơ này rất kén người đọc.
Vì vậy sau khi “Lò mổ” ra mắt, đã có nhiều bài viết đăng trên các báo, Tạp chí, fb cá nhân của một số tác giả đã có nhiều “phản biện”, tranh cãi, tạo nên một không khí thẩm định tác phẩm đa sắc màu. Nếu tác phẩm cứ đèm đẹp nằm yên trong ao tù thì có ích chi. Chính nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã có những lời tự bạch, tâm sự với bạn đọc về sự ra đời của tác phẩm và ý định của nhà thơ về một xu hướng sáng tác đa văn bản, nhiều liên tưởng của sự kết hợp giữa Thơ và Họa. Cái hay cái đẹp của tác phẩm cứ tự nhiên tỏa hương một cách thầm lặng như cây quế giữa rừng xanh “ngát hương ai biết, lẫy lừng ai hay?”.
Song có điều đáng buồn là trong “phản biện” có số ít cây bút lại dùng những lời lẽ “ngoa dụ”, “đao to búa lớn” để chỉ trích tác giả, tác phẩm nâng lên vấn đề chính trị thì “không thiện tâm”. Họ tự cho mình một “quan tòa” phán xét, là “Sao Bắc đẩu, là vầng Thái dương” để soi sáng bắt mọi người phải theo gu thẩm mỹ của mình. Thật đáng buồn. Ngay các món ăn vật chất như thịt chó mắm tôm, ba khía, sầu riêng… có người cho là thơm, là ngon, lại có người cho là thối, là dở cũng là lẽ tự nhiên theo khẩu vị mỗi người. Huống chi tác phẩm văn học là “món ăn tinh thần” thì có biết bao nhiêu khẩu vị để chiều lòng thiên hạ? Miễn là tác phẩm ấy không chống lại chế độ, không phản Đảng, không xâm phạm, không đi ngược lại lợi ích chính đáng của con người và dân tộc.
Thứ hai là việc tranh cãi mang sắc thái của thói đố kỵ. Nói một cách rõ hơn là thói “ghen ăn ghét ở” của số ít người mà thôi. Họ luôn tôn sùng “văn mình vợ người”, muốn cài gì mình cũng hơn người. Hôm qua tôi thân với anh, hôm nay thấy anh giỏi hơn tôi, có tác phẩm đạt giải, được dư luận ủng hộ là đã xa lánh, nói xấu nhau rồi. Điều này không nên có ở người cầm bút chân chính. Năm 2010 tôi đã có 2 bài thơ trào phúng nói về “Kẻ đố kỵ”, “Kẻ hãnh tiến” đăng trên trang Web của Hội Nhà văn Việt Nam. Xin trích bài “Kẻ đố kỵ”:
Kẻ đố kỵ thời nay đầy rẫy
Ghen ghét người, vạch lá tìm sâu
Cho mình giỏi còn người đời dốt hết
Nhìn bạn bè bằng nửa con ngươi.
Kẻ đố kỵ hay khoe khoang ầm ĩ
Luôn thổi phồng thành tích cá nhân
Và với ai cũng bới lông tìm vết
Ném đá giấu tay hại cả bạn mình.
Kẻ đố kỵ hay ngồi lê mách lẻo
Buôn “dưa lê” đủ chuyện trên đời
Thấy ai hơn mình liền hằn học
Cố phịa ra điều xấu hại người.
Kẻ đố kỵ lắm mưu gian kế hiểm
Khi giấu đầu, khi lại hở đuôi
Người khác khổ đau, hắn cười khoái chá
Chẳng biết mình cũng chỉ một loài tôm*
* “Loài tôm cứt lộn lên đầu” (Thành ngữ)
Thói đố kị có thể dẫn đến sự dối trá, và điều này sẽ gây hại cho chính ta. Do đó, hãy cố gắng không để sự ganh đua và thói đố kỵ xâm nhập vào tâm hồn của mình. Nhà văn Edmondo de Amicis (1846-1908) - nhà thơ, nhà báo người Ý, từng nhắc nhở: "Đừng để con rắn ghen tị luồn vào trong tim. Đó là một con rắn độc, nó gặm mòn khối óc và làm đồi bại trái tim bạn".
Nhà văn, nhà viết kịch người Nga Yuri Karlovich Olesha (1899 - 1960) ở thế kỷ 20 viết tiểu thuyết “Đố kỵ” được coi là tiêu biểu nhất, có giá trị trường tồn bất chấp sự kiểm duyệt gắt gao lúc bấy giờ, được xuất bản năm 1927. Đó là một thiên truyện đậm chất thơ với giọng văn hiện thực đầy chua xót. Trong tiểu thuyết "Đố kỵ" Joseph Epstein nói rằng, trong bảy mối tội đầu của con người, chỉ có đố kỵ là không mang lại bất cứ niềm vui hay sự thoả mãn nào. "Envy" có nguồn gốc từ tiếng Latin "invidia", có nghĩa là "mất-thị-giác". Trong trường ca “Thần Khúc” còn gọi là "Vở kịch Thần thánh" của nhà thơ người Ý Dante Alighieri (1265-1321), là một trong số những nhà thơ kiệt xuất nhất của nước Ý và thế giới cho rằng hình phạt dành cho những người phạm tội đố kỵ là bị khâu chặt mí mắt bằng dây chì, ngụ ý rằng sự đố kỵ hoặc được sinh ra, hoặc là kết quả của tầm nhìn hạn hẹp và sự mù quáng. Vì vậy sự đố kỵ trong văn chương thật là tai hại.
Văn chương luôn cần sự đổi mới về nội dung và hình thức nhưng luôn cần tuân thủ mối quan hệ biện chứng giữa hình thức và nội dung. Nhà phê bình văn học người Nga Nicolaieva nói rằng: “Không có một hình thức nào không chứa đựng nội dung và không có nội dung nào tồn tại ngoài hình thức. Nếu ta phá bỏ hình thức là phá bỏ nội dung và ngược lại…”. Có thể nói nội dung cô đọng nhất của trường ca “Lò mổ” nằm trong 18 bức tranh “Nguyện cầu”.
Nhà văn Nga Xsedrin nói một câu bất hủ rằng: "Văn học nằm ngoài những định luật của sự băng hoại, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết". Một số tác phẩm của phong trào “Thơ mới” (1932-1945) hoặc của nhóm “Nhân văn giai phẩm” (1956-1958) bị cấm thì đến thời kỳ đổi mới 1986 đã được “chiêu tuyết”, đã được “giải thiêng”.
Với “Lò mổ” cũng không nằm ngoài quy luật khắc nghiệt của sự đào thải mà thời gian và bạn đọc là trọng tài vô tư nhất. Cứ để sau một thời gian lắng lại, một thời gian trường ca “Lò mổ” được đông đảo bạn đọc thẩm định, dĩ nhiên là không tính đếm đến những ngụy biện “ngoài văn chương” hoặc những ý kiến mang màu sắc của “cách mạng màu” thì sẽ thấy đâu là quặng đâu là ngọc, đâu là vàng, đâu là thau. Tôi tin rằng tác phẩm này sẽ còn được nhiều bàn luận tiếp, tạo một không khí tranh luận về học thuật, lâu nay khá im ắng.
Cuối Xuân, 22/03/2025
LÊ XUÂN