![]() Hiện chưa có sản phẩm |
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng | Thanh toán |
Đọc tập thơ "Hương diệu ý" của Nguyễn Việt Tư - NXB Hội Nhà văn, 2020
Suy tư về thiện – ác từ khi xuất hiện loài người (có văn hóa) đến nay, con người không ngừng suy tư về bản chất của thiện và ác. Phạm trù thiện và ác được các nhà triết học, đạo đức học, xã hội học…các nhà hoạt động xã hội nhân văn; các nhà giáo dục luôn luôn đề cập đến trong hoạt động lí luận và thực tiễn. Đặc biệt nó thường xuyên xuất hiện trong những tác phẩm văn học nghệ thuật với tần xuất lớn xuyên thời gian lịch sử.
Tập thơ Hương diệu ý của Nhà thơ Nguyễn Việt Tư (trước hết là một tác phẩm nghệ thuật trữ tình sâu sắc tình người/tính người hàm chứa ngọt ngào ngôn ngữ văn hóa truyền thống của dân tộc), đồng thời thể hiện đầy đủ phẩm chất suy tư triết luận về vấn đề thiện và ác.
Tập thơ Hương diệu ý đề cập đến nhiều mảng đề tài của hiện thực nhân sinh mà khởi đầu là những truy tầm về bản thể của vũ trụ về cõi hư vô; về đấng siêu hình; về những tinh cầu..., song những suy tư có tính bản thể luận mang tính tiên đề giả định như vậy chỉ là nền tảng ngoại cảnh để tác giả quán tưởng sâu vào cõi nhân gian, từ đó ý thức sâu sắc về chân tính của cá thể - Người trong xã hội hiện đại. Giải thích về mặt từ nguyên và khái niệm Hương diệu ý công chúng dễ dàng cảm nhận một cách cô đọng, xúc tính nhất ý nghĩa đó là tinh chất của tư tưởng vi diệu, nhưng cao hơn hết là lớp ý nghĩa và giá trị vô ngôn của Hương diệu ý được tìm thấy trong Mùa tuyệt đíchcó Khoảng trời thanh khiết Hương diệu ý/Ngây ngất muôn trùng mộng thắm lên, trong nỗ lực Truy quét nỗi cô đơn vô lượng kiếp.Đó cũng chính là tư tưởng xuyên suốt của những bậc hành giả đại trí thức chân tu thiền định để trở về với tâm vô ngã.Tuy nhiên trong thi phẩm Hương diệu ý tác giả Nguyễn Việt Tư nhất quán với quan niệm nghệ thuật: Ca khúc vô thanh/Lời vô ngôn/Dốc tâm tư vào Biển – Động – Chân – Như. Với ý tưởng nghệ thuật này được coi như phát ngôn thứ nhất (mặt thứ nhất) của tư tưởng nghệ thuật trong tập thơ Hương diệu ý, chỉ duy điều đó thôi cũng đủ nâng tầm chủ thể sáng tạo – tác giả Nguyễn Việt Tư thành thi nhân/thi sĩ đích thực. Chưa kể trong tập thơ Hương diệu ý có trên ba mươi bài thơ thật sự xuất sắc nhuần nhuyễn về tư tưởng nghệ thuật, sâu sắc và giàu tính thẩm mỹ sáng tạo, năng lượng cảm xúc mạnh mẽ, hệ thống ngôn ngữ thơ ca truyền thống kết hợp hài hoà với hệ thống ngôn ngữ hiện đại.
Xuất phát từ cảm nhận về tiêu đề tập thơ Hương diệu ý, theo logic liên tưởng tôi cảm nhận về danh tính (tên khai sinh/bút danh) của tác giả - Nhà thơ Nguyễn Việt Tư theo hướng triết tự Hán học. Và nhận diện theo ý nghĩa phổ biến nhất của Từ điển, Việt Tư có nghĩa là Tư duy ưu việt (đồng thời còn hàm nghĩa chính tư duy). Quả thực cổ nhân thường dạy: “Người thơ phong vận như thơ vậy”, xét trường hợp tác giả Nguyễn Việt Tư và tác phẩm của ông với hơn 300 trang sách khổ 15x23, bao gồm ba trăm lẻ chín bài thơ trữ tình – triết luận, đã khái quát, mô tả, biểu tượng hóa đa dạng cung bậc tình cảm, tâm lí – ý thức xã hội với những trải nghiệm và suy tư vượt thoát về lí tưởng nhân văn trên đôi cánh bay bổng lãng mạn và trí tuệ của cốt cách văn hóa phương Đông uyên áo, nhu hòa, khiêm cung.
Về phương diện tiểu sử học: Nhà thơ Nguyễn Việt Tư sinh ra trong gia đình có truyền thống hiếu học ở xứ Đoài (Sơn Tây) – Hà Nội. Trong phong trào cải cách ruộng đất rung trời chuyển đất máu xương bi kịch ngút ngàn oan khiên vào thập kỉ năm mươi của thế kỉ hai mươi, gia đình ông bị quy thành phần…có vấn đề (vấn đề gia đình có học, có chữ nghĩa…), gia sản bị tịch thu xung công, các thành viên trong gia đình bị bạc đãi, do đó ông chỉ được học hết bậc phổ thông trung học, không được thi học vào bất kể trường đại học nào. Ngay cả khi ông thi đỗ vào Trường Cao đẳng Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội cũng không được phép nhập học. Đó là hệ quả của thứ chủ nghĩa lí lịch đã chà đạp nên nhân phẩm của biết bao con người hiền lương thiện lành rất mực yêu quê hương đất nước Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử khốc liệt bi thương. Tuy nhiên với Nguyễn Việt Tư, tất cả sự gian khó và nghịch lí của số phận, không làm ông nản chí, mà ngược lại ông càng quyết tâm trau rồi rèn luyện bản lĩnh tri thức để trở thành một con Người “Vang nên đầy kiêu hãnh và tự hào”, tự khẳng định tài năng, trí tuệ và nhân cách của bản thân trước cộng đồng/xã hội bằng con đường tự học. Nhờ tự học/tự đọc Nguyễn Việt Tư đã làm chủ được một khối lượng tri thức văn hóa truyền thống mà chủ yếu thuộc nhóm ngành Trung Quốc học; Việt Nam học. Các lĩnh vực ông quan tâm như: Lịch sử, địa lí, văn học nghệ thuật cho đến các tư tưởng triết học cổ đại Trung Quốc… nên ông nắm rất chắc những tri thức về văn hóa truyền thống như: Phong thủy; thuật chiêm bói;y lí bốc thuốc trị bệnh cứu người…, đặc biệt ông say mê văn học nghệ thuật. Nhờ am hiểu chữ Hán nên Nguyễn Việt Tư tiếp cận văn hóa Trung Quốc khá nhuần nhuyễn, nhất là khi ông tiếp cận với các thành tựu tri thức siêu hình của các triết thuyết Phật giáo, Nho giáo và tư tưởng Lão – Trang, khiến ông sâu sắc hơn trong nhận biết kiếp người trong cõi nhân gian. Vốn sẵn có tâm hồn nghệ sĩ phong phú và sự trải nghiệm đau đời của cá nhân cũng như bi kịch của gia đình ông đã phản ánh vào trong những trang thơ đầy “nổi giận” của máu – lửa – nước mắt. Nổi giận ở đây được hiểu là một cuộc cách mạng của tâm hồn trí thức nghệ sĩ – là sự “nổi giận” của trí tuệ, nó chỉ hướng vào bên trong để tự điều chỉnh hành vi, ý thức xã hội của cá nhân theo hướng nhân văn, tự hoàn thiện nhân cách của cá nhân.
Mở đầu sự xuất hiện của chủ thể sáng tạo nghệ thuật - “tôi” trữ tình trong tập thơ Hương Diệu ý,tác giả đặc tả khái quát: Tôi sinh ra trong một thế cờ thua/ Xin nghiêng mình trước nỗi đau khả kính/ Lấy thánh ân soi vào đáy đêm đen. Tác giả thể hiện tư thế vị tha rộng lượng bao dung vô hạn, không oán trách, phê phán mà coi nỗi đau cá nhân cần phải được thực hiện bằng nghi lễ cung kính đáng trọng, vì sự gian khó, bi kịch hay nghịch lí trong cuộc đời chính là một trường học lớn, một người thầy giỏi rèn con người trở nên quả cảm can trường, trưởng thành hơn khi biết vượt qua. Ở đây chắc chắn do hiểu đúng yếu lí của các tư tưởng phương Đông nên tác giả có đủ dũng khí để tung bút với sự thiện tâm, thiện ý của tư tưởng nhẫn (Nho giáo). Song tác giả cũng không quên bình luận và nhắc nhở về thời đoạn lịch sử khắc nghiệt đen tối bao trùm toàn xã hội (thời cải cách ruộng đất) đồng thời cũng là dự cảm tinh nhạy của một tâm hồn nghệ sĩ luôn thao thức suy tư cho tha nhân và vì tha nhân cả trong hiện tại và tương lai. Cho nên xuyên qua văn bản tập thơ Hương diệu ý luôn vang nên ý hướng cảnh giácAi biết lung linh kia là máu?ám ảnh lay động công chúng, giống như một luận đề triết học văn hóa chưa có lời đáp/giải.Với sự lí giải đầy chế giễu và thật hài hước nhưng tài hoa để biểu lộ thái độ minh triết quân tử của “tôi” trữ tình, tác giả xem sự trả thù tầm thường như Vết chó cắn dưới chân, như Vết roi của đồng loại tặng. Và Nhà thơ Nguyễn Việt Tư đi đến nhận định: Vua chúa cũng sống đời hai mặt/ Ta muốn xin em đừng chơi bùa ngải giữa chốn linh thiêng.
Có lẽ do trải qua những năm tháng gian khổ, cô đơn, hoảng sợ… Nhìn thấy ông nông dân bé xíu cũng đủ lao đao cho nên Nguyễn Việt Tư rất khâm phục Vũ Hoàng Chương trong cách biểu đạt rất tinh tế mà giàu sức khái quát: “Từ thuở ngươi về hỡi lũ man dã đến vô tri sỏi đá cũng buồn đau”. Do đó có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thơ của Nguyễn Việt Tư phảng phất phong cách Vũ Hoàng Chương. Tuy nhiên trong thơ Vũ Hoàng Chương viết về trạng thái cảm xúc “say” là say của “Lơi lả ánh đèn” say của “Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân” và “say” của sự sụp đổ “Thành sầu”. Còn say của Nguyễn Việt Tư là say trí tuệ, say cắt nghĩa về lí tưởng hướng thiện, phục thiện của cá nhân…
Thi phẩm Hương diệu ý đề cập đến nhiều đề tài, nhưng khái quát lại toàn bộ tập thơ toát nên nội dung tình yêu quê hương xứ sở đất nước con người Việt Nam; tình thương yêu kính trọng đối với ông bà cha mẹ…người thân trong gia đình và tình yêu lứa đôi, thông qua đó tác giả bày tỏ sự suy tư triết luận của mình về bản chất của đời sống xã hội cũng như vị trí, vai trò của con người trong xã hội. Đồng thời tác giả nhấn mạnh con người nên có thái độ ứng xử theo mô hình lí tưởng của văn hóa Phật giáo.
Tình yêu quê hương xứ Đoài được Nhà thơ Nguyễn Việt Tư sáng tạo thật cảm động giàu chất thơ: Hồn lang bạt biết cõi nào nương náu/ Quê hương ơi muôn thuở biết ơn Người/ Ôi dân tộc giống nòi lịch sử/ Hết trang buồn xin mở những trang vui.Đặc biệt những địa danh của xứ Đoài – Sơn Tây (cổ) hiện nên với sự đăng đối sơn thủy – hữu tình núi Tản sông Đà hoặc sông Đáy núi Sài Sơn. Trong một ngữ cảnh khác, các địa danh của xứ Đoài được thể hiện bằng một trạng thái cảm xúc kính cẩn sâu lắng thiêng hóa,tác giả bộc lộ tình cảm chân thật mang tính khẳng định đầy quyết đoán…Ta sẽ đi khắp Quốc Oai, Thạch Thất/ Mời bạn bè thân tín về hát những bản tình ca tiền chiến. Song cảm động nhất, sáng tạo hơn cả khi tác giả viết về núi Ba Vì ngọn chủ sơn trong văn hóa của người Việt, Núi Ba Vì đang phát nguyện từ bi. Ở đây câu thơ nếu đọc thoáng qua người tiếp nhận dễ đồng nhất với một thông báo giao tiếp thông thường, nhưng khi phân tích sâu về đặc điểm nghệ thuật và so sánh lịch sử thơ ca đã viết về núi Ba Vì, chúng ta mới thấy rõ khả năng tài hoa sáng tạo nghệ thuật của Nhà thơ Nguyễn Việt Tư. Núi Ba Vì theo cách nhìn duy lí của ngành địa – vật lí/vật lí địa cầu, nó chỉ là kết quả sự vận động tạo sơn của vỏ trái đất, do khối nâng hệ núi Hoàng Liên Sơn dịch chuyển kiến tạo địa chất. Còn theo cách nhìn của các nhà địa – văn hóa và các ngành xã hội nhân văn, núi Ba Vì thiêng vì có huyền tích Thánh Tản Viên, có chuyện Sơn Tinh giao chiến với Thủy Tinh thời tiền sử. Và trong thơ Quang Dũng núi Ba Vì được nhân hóa có Vầng trán. Ngược thời gian xa hơn nữa, các nhà khoa bảng đã mô tả núi Ba Vì tròn như cái tán…nhìn chung tất cả các nhà thơ trước đó mới cấp nghĩa cho núi Ba Vì ở cấp độ hình dáng, kích thước, màu sắc, dáng vẻ bề ngoài tự nhiên bất động. Chỉ đến khi xuất hiện thi phẩm Hương diệu ý của Nguyễn Việt Tư, núi Ba Vì đã trở nên sinh động vì tác giả đã đặc tả được trạng thái bên trong và nhân hóa, cấp nghĩa cho núi Ba Vì có ý thức mà ý thức ở đây là ý thức của trí huệ/tuệ Phật tính từ bi của đức Phật có sứ mệnh phát nguyện từ bi để trao truyền bát nhã chân kinh đưa chúng sinh thoát khỏi vô minh. Với khả năng quan sát tinh tế và trực giác nhạy cảm, Nguyễn Việt Tư có sự liên thông ý tưởng cá nhân siêu vi tế vềhình ảnh đức Phậttạo nên tính thiêng. Núi Ba Vì vốn có Thánh Tản Viên ngự yểm rất thiêng, nay có thêm Phật trong tâm thức nghệ thuật của thi nhân và trong tâm thức văn hóa đại chúng, núi Ba Vì đã thiêng nay lại càng thiêng hơn. Nhờ đó khi càng đọc kĩ, càng ngẫm nghĩ, nhất là có sự trải nghiệm cá nhân đủ đầy về cõi nhân sinh, chúng ta càng nhận thấy Núi Ba Vì phát nguyện từ bi quả thực là một câu thơ tài hoa sáng tạo giàu khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa một hiện tượng tự nhiên thành một hiện tượng văn hóa, một hiện tượng nghệ thuật độc đáo.
Với tập thơ Hương diệu ý theo tôi mảng đề tài đặc sắc nhất đồng thời cũng chứa đựng nhiều thông tin tư tưởng nghệ thuật nhất mà tác giả Nguyễn Việt Tư muốn gửi lại cho mai sau, đó chính là mảng đề tài thơ – triết luận. Đó là tạm thời phân loại theo loại hình học để phục vụ thao tác nghiên cứu đánh giá thơ Nguyễn Việt Tư theo tính trội của ngôn ngữ triết luận, còn trên thực tế văn bản thơ Hương diệu ý, hầu hết bài nào cũng có dấu vết triết luận ở các mức độ đậm nhạt khác nhau.
Nếu nhìn từ cấu trúc văn bản Hương diệu ý, tư tưởng nghệ thuật được phát ngôn đều tập trung vào phạm trù tư tưởng thiện – ác, mà tiêu biểu nhất là thi phẩm Rơi có tính cách đại biểu cho toàn bộ tác phẩm được xem như phát ngôn thứ hai (mặt thứ hai) của tư tưởng nghệ thuật. Nội dung thi phẩmRơi chỉ bao hàm tám câu thơ tự do: Khi bò khỏi miệng hang tiền sử/ Rũ bộ lông/ Thay bằng nốt văn minh/ Trong sờ soạng/ Con người tìm thấy lửa/ Nhưng vô tình/ Rơi mất/ Lửa từ tim.Chỉ riêng thi phẩm Rơi đứng độc lập cũng đủ khẳng định tư cách thi sĩ Nguyễn Việt Tư vững chắc trong “hệ hình” thơ hiện đại Việt Nam (tất nhiên trong tập Hương diệu ý có trên ba mươi bài thơ thuộc “hệ hình” hiện đại). Vấn đề tư tưởng nghệ thuật của thi phẩm Rơi trên đây cũng chính là bi kịch phổ quát của nhân loại. Khi bước vào xã hội văn minh từ việc phát hiện ra ngọn lửa tự nhiên – vật lí, con người lại đánh mất ngọn lửa nhân văn thương yêu con người. Khi ngọn lửa nhân văn mất đi con người trở nên hung ác khôn lường, con người trở thành kẻ ác nhất trong thế giới. Hình tượng Lửa được Nhà thơ Nguyễn Việt Tư khai thác trên rất nhiều bình diện nghệ thuật, nhưng tập trung cô đọng nhất là ngọn Lửa nhân văn – biểu tượng cho những phẩm chất, những giá trị tinh thần tốt đẹp nhất mà con người luôn luôn phải vượt thoát hiện thực tầm thường để hướng tới hiện thực phi thường thánh thiện và giữ lấy đừng bao giờ vô tìnhhay hữu ý đánh rơi ngọn Lửa nhân văn. Khi thiếu vắng Lửa – niềm tin con người rơi vào trạng thái Ta đi như ánh sao cô độc/ Lạc giữa càn khôn mất lối về/ Sinh mệnh cầm tay ngàn cân nặng/ Lăn mòn trên con dốc vô tri. Trên một bình diện nghệ thuật khác Nguyễn Việt Tư chỉ ra sự lệch chuẩn của hành vi do thiếu Lửa nhiệttình thông sáng quả cảmdẫn đến Ta chỉ thấy bao ngày xanh mất tích/ Ta mải vui, cạn chén vô thường/ Thấu trông sáu cõi vẫn bơ vơ/ Nỗi cô đơn đủ chết một tinh cầu/Ai thổi lửa vào trái tim giá buốt. Và cuối cùng ý hướng triết luận về Lửa được con người nhận ra Ta đã biết sự mạnh mẽ và dịu dàng của Lửa/Ta phủ phục trước uy quyền của Lửa. Con người thần phục trước uy quyền của Lửa chính là nhận ra sức mạnh của Lửa nhân văn, đó còn là thứ quyền lực mềm của Lửa nhân văn – lương thiện.
Hiểu và làm chủ được Lửa nhân văn làm cho con người trở nên mạnh mẽ hơn, nhiều quyền năng hơn, sáng tạo ra những giá trị nghệ thuật trong sáng thăng hoa Tôi đã viết những vần thơ rút ruột/Nâng hai tay đỡ lấy càn khôn/Và mực đỏ hào quang thơ giáng bút.
Trong tình yêu lứa đôi với niềm vui luyến ái…cao trào cuộn dâng “tôi” trữ tình cũng nhận ra sự màu nhiệm huyền vi của ngọn Lửa ham muốn bản năng rất con người, tạo nên sức mạnh nội sinh “thành – trụ” kéo dài sự bất tử con người về mặt di truyền. Song sự ham muốn đầy chất Người đó được tác giả sáng tạo thật mơ hồ đa nghĩa không gợn một chút dung tục mà tràn ngập biểu cảm lung linh tươi sáng, mực thước thấm đượm phong vị Đường thi. “Tôi” trữ tình đã Tìm trong lửa cháy màu hoan lạc/Nhân tình còn chứa những bầu thơm? Men huyền uống đến cơ hồ cạn?Lạc giữa bơ vơ lại thấy nguồn. Sau những ham muốn xuất thần, sự thao thức vượt thoát về với ánh sáng lương thiện được khai sinh bừng thức trở về với nguồn chân đạo, chân như – tức là tột cùng của lương thiện con người. Trong những trường hợp “tôi” trữ tình chưa thống nhất phù hợp được với “em” ngoại đề trữ tình (khách thể đối thoại) “tôi” trữ tình rất dè dặt, e ngại, sợ làm tổn thương “em” ngoại đề trữ tình, như trong không gian nghệ thuật đối thoại – Tôi muốn nhốt lửa vào em sợ em đau/ Mong thành giọt sương làm mềm tim đá. Trong ngữ cảnh đó Lửa được hiểu là Lửa đam mê ham muốn, Lửa nhiệt tình bản năng, đồng thời cũng là cách diễn tả tu từ, uyển ngữ về hành vi tính dục ở chiều kích biểu hiện có văn hóa. Ở tầng nghĩa chìm ẩn sâu hơn dưới tầng nghĩa tường minh – là sự lệch kênh tư duy văn hóa nên “tôi” trữ tình phải dùng phương tiện khác, cách thức khác để đối thoại với “em” ngoại đề trữ tình nhằm tìm ra tìm ra chân lí sống. Song điều đó chỉ thực hiện được khi hiểu rõ nguyên lí/dịch lí “Thiên nhất sinh thủy”, mềm như nước, mạnh như nước, hạ thấp mình như nước mới có thể bao dung cảm hóa được tất cả nhân quần trở về với chân đạo.
Nỗ lực vượt thoát khỏi trạng thái lưỡng phân giữa con người trần tục với con Người chân đạo, “tôi” trữ tình đã ngẫu nhiên vô thức quán tưởng vào lối ứng xử dân gian, mong tìm ra sức mạnh siêu nhiên Tôi đã đi qua những địa ngục gia đình/Những gia đình địa ngục/Tôi đã đi qua…chờ cánh én bay vào cổ tích/ Câu chuyện buồn như những trang kinh. Sự thao thức vượt thoát trên hành trình đối thoại để tìm ra ánh sáng ngọn Lửa lương thiện nhân văn thuần khiết, “tôi” trữ tình cũng có lúc vật vã bối rối mất phương hướng Tôi như con tàu không hải cảng/Chỗ nào cũng vạn áng mây/ Cũng đá cũng bùn. Trăn trở vượt nên chính mình, “tôi” trữ tình nhiều khi tự trấn an có phần tiêu cực trước hiện thực Ai theo đuổi giấc mơ vĩ đại/ Kiệt sức rồi chẳng thấy quả thơm/ Trên sa mạc lũ cừu cuồng dại/ Nối nhau đi như những oan hồn.Cao trào của điểm nút “phá chấp” để trở thành nhân cách vô ngã, trước phút giây thức tỉnh, “tôi” trữ tình đã thoát khỏi tôi – ngã chấp thế gian để bước vào cảnh giới khác. Nghĩa là phá bỏ mọi chấp chước thành công viên mãn, sống với hạnh nguyện từ bi để trân trọng bảo vệ ngọn Lửa lương thiện nhân văn rực sáng thường hằng. Và phút hóa thân, hóa ý đột biến trở thành Hương diệu ý tuyệt vời sáng đẹp trong Mùa tuyệt đích của trí huệ/tuệ bát nhã chân như, là khi “tôi” chủ thể sáng tạo thống nhất phù hợp với “tôi” trữ tình và “em” ngoại đề trữ tình (khách thể) trong đối thoại đã nhìn thấu chân lí ở sáu cõi. Mà đỉnh cao của giác ngộ tri kiến Phật tính là “tôi” trữ tình đã nhìn thấy ngọn Lửa từ tâm, trở về bản tâm chân thật nguyên thủy của loài Người khi chưa đánh rơi Lửa từ tim. Tôi ở núi mà cứ đi tìm núi – về phần này cũng cần hiểu rõ về thuật ngữ núi trong Hương diệu ý.
Theo quan niệm của Nho giáo “gần núi thì tĩnh/gần nước thì hoạt”. Do vậy thông điệp nghệ thuật ở đây tác giả muốn nói về bậc trượng phu quân tử tu thân thành tựu trước hết phải tĩnh, và chỉ có tĩnh thì trí mới sáng. Theo quan niệm Phật giáo truyền thống thuật ngữ núi đồng nghĩa với sơn môn/ thiền môn – nơi tu tập thiền hành của hành giả/sa môn/thiền sinh, nhằm giác ngộ chân tính Phật. Xuất phát từ hai quan niệm trên, cho nên có nhiều khả năng mang tính khẳng định ý tưởng nghệ thuật hướng đến “tôi” trữ tình đã “tĩnh” – nghĩa là “tôi”… đã sáng, đã sống trọn vẹn trong sơn môn, thiền môn từ vô lượng kiếp để tu tập, giờ giác ngộ mới nhận ra chân lí đó. Tôi ở núi mà cứ đi tìm núi trong Hương diệu ý cũng hoàn toàn trùng hợp với tư tưởng thiền học của Phật Hoàng Trần Nhân Tông “trong nhà có ngọc chẳng cầu đâu xa”. Sự tinh tế bác học trong tư tưởng nghệ thuật của Hương diệu ý được thi sĩ Nguyễn Việt Tư khai thác, biểu hiện với thủ pháp điêu luyện tinh giản.
Khép lại thi phẩm Hương diệu ý tác giả chỉ sử dụng mấy nét chấm phá phóng khoáng tài hoa mà bày tỏ được cả một quan niệm sống, cả một triết lí nhân văn của bậc chân tu giác ngộ Hãy nhớ tôi như một kẻ đáng quên/Và tha thứ cho tôi/Tôi có tội vì không có tội.Thật cô đọng hàm xúc vậy thôi! thi sĩ Nguyễn Việt Tư đã khắc họa nhu nhuyễn thành công trạng thái giao thoa chuyển hóa ý hướng tư duy siêu việt giữa “chấp” và “phá chấp” của tâm lí ý thức xã hội thông qua cá thể người cụ thể trong tác phẩm. Điều đó cũng khẳng định con người đời thường muốn trở nên phi thường, được xã hội/lịch sử tôn vinh ghi nhận, nhắc nhớ đến như một sự bất tử vĩnh hằng, trước hết phải biết “quên” cái “tôi” – tiểu ngã (nhỏ bé tầm thường).
Ngoài hai biểu tượng về Lửa vật lí và Lửa nhân văn, Nhà thơ Nguyễn Việt Tư còn phát hiện ra ngọn Lửa sinh học trong khi tu tập luyện thiền – khí công để quán tưởng về “em” – khách thể trữ tình song hành trong tập thơ Hương Diệu ý. Lời thơ cùng ý tưởng nghệ thuật hướng đến lí giải khám phá mô hình con rắn hỏa xà trong văn hóa cổ Ấn Độ đang dịch chuyển đi qua các luân xa, khai mở trí huệ/tuệ thượng thừa để nhận biết thế giới Ta thấy như là ta mất ta/ Con rắn lửa khoanh tròn lay động dưới hang thiêng/ Nghe thần chú luồn sâu lên đỉnh óc/ Nơi thiền nhân cởi áo/ Tôi quán tưởng về em. Sự quán tưởng về em ở đây chính là quán tưởng về thế giới bên ngoài khi đại sư thiền khí công đã làm chủ được sự vận hành của ngọn lửa hỏa xà trong cơ thể để biến thành năng lượng siêu nhiên quán tưởng – thông suốt thế giới khách quan.
Với ba biểu tượng về lửa trong Hương diệu ý hợp thành tam vị nhất thể phong cách thơ trữ tình triết luận độc đáo của Nguyễn Việt Tư. Ba ngọn lửa (Vật lí; nhân văn; sinh học) soi sáng cho nhau nương tựa vào nhau cùng con người vượt thoát vô minh vươn tới ánh sáng văn minh ánh sáng trường sinh, ánh sáng lương thiện. Trong triết luận về ánh sáng của lửa vật lí là ánh sáng mang tới nền văn minh vật chất, còn ánh sáng của lửa sinh học mang đến sự trường sinh của con người nhằm vươn lên sự bất tử trong thế giới sinh – diệt, cuối cùng ánh sáng của Lửa nhân văn mang đến văn hóa tinh thần hướng đến sự lương thiện, nhằm kiềm chế hung tính – tính ác của con người.
Xuyên suốt tập thơ Hương diệu ý nhìn từ cấu trúc văn bản nghệ thuật đó là sự thống nhất tư tưởng giữa chủ thể sáng tạo nghệ thuật với “tôi” trữ tình và “em” khách thể - thế giới bên ngoài để đối thoại tìm ra chân lí có hằng số chung là sự thao thức vượt thoát về ánh sáng lương thiện.
Tập thơ Hương diệu ý còn rất nhiều điều thú vị cần bàn như quan niệm về phật giáo; quan niệm về tư tưởng Lão – Trang; Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật và phong cách sáng tạo hình tượng nghệ thuật…
Tác phẩm Hương diệu ý ra đời là sự thành công của tác giả Nguyễn Việt Tư và cũng là sự công nhận tôn vinh xứng đáng của cộng đồng xã hội đối với tác phẩm cũng như cộng cảm liên thông chủ thể giữa người đọc với quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật nhiều năm qua của Nhà thơ Nguyễn Việt Tư.
Để kết thúc cho bài viết chúng tôi xin phép mượn lời người xưa “Ở đời mấy bậc cố tri, mấy trang đồng đạo, mấy người đồng tâm?”… Anh Nguyễn Việt Tư ơi! thi nhân ơi…! Anh đi về vô ngã trên con thuyền bát nhã ba la mật. Và trân quý ngọn Lửa nhân văn vĩnh cửu trong tim anh nhé, chúng tôi tin tưởng sâu sắc rằng anh đã có và sẽ có nhiều người bạn tri âm, tri kỉ, đồng đạo, đồng tâm đồng hành với anh trừng ác phục thiện, khám phá làm chủ cái đẹp, làm chủ ngọn Lửa nhân văn.
Nguyễn Văn Sơn