CON ĐƯỜNG MỚI - KHỞI NGUỒN TRI THỨC

“Tiếng làng” nặng nghĩa nặng tình

Nhận được tập thơ đầu tay của anh Phan Xuân Luật, tôi đã đọc, và lắng nghe “Tiếng làng” trong thơ anh, một tiếng nói thầm thì, mộc mạc mà sâu lắng. Khi nhà thơ viết về làng mình, quê mình, bao giờ cũng nhỏ nhẹ như vậy.

Phan Xuân Luật quê làng Đông, huyện Yên Thành, xứ Nghệ. “Đất nghèo sinh những nhân tài”, đây chính là ngôi làng của nhà cách mạng Phan Đăng Lưu-một tài năng kiệt xuất của Đảng. Yên Thành cũng là quê hương của một số nhà văn nhà thơ mà tôi quen biết như anh Nguyễn Xuân Phầu-lớp trưởng lớp Văn của tôi ngày tôi học Tổng hợp Văn Hà Nội, anh Nguyễn Thế Kỷ-nhà văn, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương, và anh Phan Xuân Luật – nhà thơ, nguyên Giám đốc Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Yên. Hóa ra, mấy anh này cũng đều từ “lò” Tổng hợp Văn Hà Nội mà ra cả.

Nhận được tập thơ đầu tay của anh Phan Xuân Luật, tôi đã đọc, và lắng nghe “Tiếng làng” trong thơ anh, một tiếng nói thầm thì, mộc mạc mà sâu lắng. Khi nhà thơ viết về làng mình, quê mình, bao giờ cũng nhỏ nhẹ như vậy:

“Tuổi lũ tôi giờ nói ít nghĩ nhiều

Gặp nhau vẫn mi tau một thuở

Rượu gạo nâng ly, chuyện xưa cùng nhớ

Chức tước, giàu sang cất giùm trên phố

Ngồi với nhau là những đứa trẻ làng”

Tôi thích tiếng thơ anh là tiếng trẻ làng ngây thơ như thế. Cái khó nhất với một nhà thơ là làm sao khi đã lớn tuổi, thơ họ vẫn như thời họ còn nhỏ, còn trẻ, nếu là trẻ làng trẻ trâu thì càng tốt.

Tập thơ “Tiếng làng” mở đầu bằng bài thơ “Miền Trung”, nơi đất nghèo đất nắng nôi lũ lụt mà sinh ra khối nhà thơ:

“Miền Trung

Nghĩa trang dày như xóm như làng

Người sống kề bên người chết

Hoàng hôn cháy nén nhang tiễn biệt

Gần hết làng tôi trai tráng không về”

(Miền Trung)

Một làng cực nghèo mà trai tráng đều đi bộ đội, và họ đã nằm lại khắp cùng đất nước. Vâng, họ đã ra đi từ mảnh đất làng mình:

“Đất ra giêng mịt mờ mưa bụi

Con cò rét run trên cành lộc mưng

Mẹ tôi đi cấy ngoài đồng

Nguyên ngấn gạch cua bàn chân ngồi sưởi

Cha tôi đi cày về

Ngón chân tòe ra như rễ

( Đất)

Những người lính quê Yên Thành ấy đã góp cùng hàng triệu người lính là bộ đội Cụ Hồ 80 năm chống giặc ngoại xâm, bảo vệ và gìn giữ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Hầu hết họ đều xuất thân là những đứa trẻ làng nghèo khổ:

“Những đứa trẻ làng tôi ít khi được no

Vẫn mong Tết để được ăn thịt cá

Giờ mâm cỗ đủ đầy mà bạn bè vắng quá

Chỉ mong Tết gặp nhau để nhắc chuyện Tết nghèo

(Những đứa trẻ làng tôi)

Thơ Phan Xuân Luật cứ nhỏ nhẹ thấm vào ta như vậy, đâu cần nói tiếng to, khoe lời chữ, mình lặng lẽ giành tiếng to cho sấm tháng ba:

“Tháng ba rồi tiếng sấm cũng khác hơn

Trời đang nắng cơn mưa chiều chợt đến

Hoa gạo đỏ chưa một lần lỗi hẹn

Lại bừng bừng cháy dọc triền sông

(Tháng ba)

Tôi là một người làm thơ rất thích hoa gạo, thích cái màu đỏ như lửa cháy của nó vào tháng ba, mãnh liệt mà tự nhiên, mà đột ngột. Khi đã thích màu hoa gạo, thì nhà thơ xứ Nghệ yêu luôn cả giọng Nghệ “quê choa” của mình, chất giọng ấy cũng có màu đỏ như hoa gạo:

“Thời trai trẻ còn ngượng ngùng giọng Nghệ

Không dám khoe đặc sản quê nhà

Giờ đã đi mọi phương trời góc bể

Giữa Hà thành oảng oảng giọng quê choa”

(Giọng Nghệ)

Khi đã yêu thương làng mình, thì hình ảnh ngôi chùa làng bình dị lại hiện lên trong thơ. Những ngôi chùa thanh bạch như thế là những ngôi chùa có Phật, vì nó chứa tình thương:

“Chùa làng chẳng đẹp cà sa

Áo nâu với vại dưa cà, chĩnh tương

Nghĩ làng giáp hạt mà thương

Hết khoai hết gạo lại nương náu chùa

( Chùa làng)

Người làm thơ đều biết cái khó khăn đến vô vàn khi đã quyết định mình sẽ “Ngậm ngải tìm trầm”, vì cây dó thì nhiều còn trầm thì quá ít, giống như câu chữ nhiều mà thơ ít vậy:

1. Trồng một nghìn cây dó

Được một cây có trầm

Một đời thơ ngậm ngải

Nhà thơ lòng lâng lâng 

2. Bổ một nghìn tạ củi

Tìm được chút lõi trầm

Tay rộp phồng, búa mẻ

Nhà phê bình trầm ngâm

(Thơ)

Vâng, nhà phê bình không làm thơ thì thật khó biết cái gian khổ của người làm thơ. Nói thì dễ, làm thì khó, là vậy.

Tôi muốn tạm kết thúc bài viết này bằng trích một bài thơ ngắn nhà thơ Phan Xuân Luật viết tưởng nhớ người vợ đã quá cố của mình. Một bài thơ thật ngắn, mà cái tình nghĩa vợ chồng thì quá dài, cứ ngâm ngùi day dứt mãi:

“Có đêm không ngủ

Nhớ em

Nhớ một tiếng gắt gỏng

Nhớ một điều đã quên

 

Nhiều đêm không ngủ

Nhớ em

Ngồi như cây nến cháy

Gọi

Một vì sao im”

(Nhớ 1)

 

THANH THẢO

(Nguồn: vanvn.vn)

Đăng kí nhận tin

Hotline: 0912.568.999
Chat tư vấn ngay messenger zalo