![]() Hiện chưa có sản phẩm |
TỔNG TIỀN: | 0₫ |
Xem giỏ hàng | Thanh toán |
Thơ Trần Lê Khánh như hành trình đi tìm bản thể bằng một hình thức ngôn ngữ thơ ca khác biệt. Các bài thơ trong tập thơ Giọt nắng tràn ly rất ngắn, mỗi bài chỉ bốn hoặc sáu câu, như những câu châm ngôn đúc kết chiêm nghiệm về cuộc sống hoặc trạng thái cảm xúc bất chợt của tác giả. Thay vì lối viết thông thường, tác giả dùng thơ (ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu…) để ghi lại suy nghĩ. Đây là cách để tác giả giải tỏa những ẩn ức bên trong, đi tìm bản thể của chính mình hơn là nhằm chia sẻ với người khác: linh hồn là dòng lưu/ đứng im không chảy/ tôi về tắm hai lần/ tôi thành một dòng sông (Tôi là ai)
Tập thơ "Giọt nắng tràn ly" của Trần Lê Khánh
Cái tên Trần Lê Khánh đã không còn xa lạ với thi ca Việt Nam nhưng tập thơ Giọt nắng tràn ly lại tạo ra một dư vị “lạ”. Edgar Allan Poe cho rằng: Viết văn giống như giải một bài toán trí tuệ [6]. Điều đó đúng đối với thơ Trần Lê Khánh và Giọt nắng tràn ly.
Thơ Trần Lê Khánh như hành trình đi tìm bản thể bằng một hình thức ngôn ngữ thơ ca khác biệt. Các bài thơ trong tập thơ Giọt nắng tràn ly rất ngắn, mỗi bài chỉ bốn hoặc sáu câu, như những câu châm ngôn đúc kết chiêm nghiệm về cuộc sống hoặc trạng thái cảm xúc bất chợt của tác giả. Thay vì lối viết thông thường, tác giả dùng thơ (ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu…) để ghi lại suy nghĩ. Đây là cách để tác giả giải tỏa những ẩn ức bên trong, đi tìm bản thể của chính mình hơn là nhằm chia sẻ với người khác: linh hồn là dòng lưu/ đứng im không chảy/ tôi về tắm hai lần/ tôi thành một dòng sông (Tôi là ai) [3]. Hơn nữa, với một lối viết ngắn, kiệm lời đến mức tối giản, thơ Trần Lê Khánh thiên về “gợi” hơn là tả thực, giãi bày, bởi vậy cũng dễ hiểu khi có người cho rằng thơ Trần Lê Khánh như “đánh đố” độc giả. Sự “đánh đố” đó được tạo bởi tính chất đa nghĩa, bất ổn đặc trưng của ngôn ngữ thơ ca, tính chất trừu tượng, “để ngỏ” của văn bản nghệ thuật, cũng như thế giới nội tâm thăng hoa đầy bí ẩn của tác giả. Làm thơ như một cách thức hữu hiệu đem lại sự cân bằng cho chính nhà thơ, như Trần Lê Khánh chia sẻ: “từ khi làm thơ tôi cảm thấy mọi thứ nhẹ nhàng hơn” [5]. Hiệu ứng của sự “đánh đố” đó là buộc độc giả phải tư duy, động não để hiểu văn bản bài thơ.
Một cách vô thức, thơ Trần Lê Khánh viết theo nguyên lý “tảng băng trôi” của Hemingway. Phần nổi là câu chữ, từ ngữ, những ký hiệu ngôn ngữ, phần chìm là ý tưởng của tác giả. Ý tưởng ấy được tạo bởi một nền tảng kiến thức về xã hội, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học, và những trải nghiệm trong cuộc sống. “Phần chìm của tảng băng” tạo ra độ sâu cho thơ Trần Lê Khánh, khiến người đọc phải suy ngẫm, giải mã, một kiểu “trò chơi trí tuệ” (mind game). Độc giả đọc thơ Trần Lê Khánh phải suy ngẫm để nắm bắt ý nghĩa của từng hình ảnh trong một câu thơ, sự liên kết giữa các câu trong một bài, mối liên hệ giữa ý tưởng của cả bài thơ với nhan đề của bài. Chẳng hạn: Bài Cả đời người là mùa xuân: hỡi ngọn lửa/ đừng xài hoang phí bóng tối/ đừng dốc lòng/ đốt cạn đêm vơi; Bài Trâm: em búi mái tóc bên cửa sổ/ như búi tuổi thanh xuân của mình/ trời còn chưa xõa sáng/ chỉ cài hờ vệt nắng lang thang.
Đáng chú ý, nhiều bài thơ của Trần Lê Khánh có một “khoảng trống” giữa nội dung và nhan đề - một khoảng trống có chủ ý của tác giả. Tên nhiều bài thơ có sức gợi, bộc lộ tư duy triết học, khái quát, và có tính đương đại: Là nguyên nhân không cần kết quả, Tôi là ai, Đừng hỏi tại sao, Một ngày địa đàng bằng một năm hạ giới, Cả đời người là mùa xuân, Sa mạc trong hạt cát, Mái tóc dài hơn dòng sông, Tình yêu là không sở hữu,… Hầu hết các bài thơ trong Giọt nắng tràn ly được cấu trúc thành hai phần tương phản: những câu chữ tối giản, đôi khi “đứt gẫy” ở phần nội dung bài thơ được cân bằng lại bởi những nhan đề có tính khái quát, đúc kết. Đây là một sự đầu tư có dụng ý của tác giả, với quan niệm: “một bài thơ thì tựa chiếm 50% quyết định cái hay hay dở của bài thơ” [5]. Tôi cho đây là một sáng tạo, điểm nhấn lạ và rất ấn tượng của thơ Trần Lê Khánh. Trò chơi trí tuệ này quả thực thú vị bởi sẽ có nhiều cách giải khác nhau hoặc thậm chí không có lời giải. Đây chính là bản chất khái niệm “tác phẩm mở” của Umberto Eco, bởi văn bản nghệ thuật có đặc tính trong việc tạo ra sự hiểu không đồng nhất ở độc giả, có sự “đọc-hiểu”, “hiểu sai”, thậm chí “không hiểu gì”. Thơ Trần Lê Khánh vì vậy “kén” độc giả. Chính tác giả cũng ý thức rõ điều này “tôi không làm thơ để tìm độc giả, tôi làm thơ để tìm tri kỷ”: giữa tôi và ngày/ có một khoảng cách mênh mông/ chúng tôi là những kẻ xa lạ/ sống cô đơn giữa thế giới này (Tri kỷ). Những độc giả thích thú thơ Trần Lê Khánh chắc chắn không phải “người đọc đại trà” mà là những người đọc có sự tương đồng ít nhiều với nhà thơ, có sự tích lũy kiến thức, cảm xúc, trải nghiệm trong cuộc sống. Jean Paul Satre đã đề cập hiện tượng này trong tác phẩm Văn học là gì?: “mọi văn bản văn học đều được chuẩn bị trong ý thức của một công chúng tiềm năng: cái ngôn ngữ mà tác giả sử dụng sẽ lôi cuốn một loại công chúng này mà không phải công chúng kia”. [1]
Hiểu biết về tôn giáo, Phật học, Thiền học, khoa học tự nhiên, Trần Lê Khánh chuyển tải sự hiểu đó vào thơ, qua những hình ảnh ẩn dụ, có tính biểu tượng (ngọn lửa, cái bóng, dòng sông, con thuyền, trăng, đêm, nước, đá, núi…) hay cảm thức về bước đi của thời gian bốn mùa (xuân-hạ-thu-đông), ba chiều thời gian (quá khứ - hiện tại - tương lai), về vẻ đẹp của con người, tạo vật:
hoa phượng/ rực nở trên cành/ mùa xuân/ chẳng còn lành lặn. (Em lúc đẹp nhất của mùa hạ)
mùa đông/ đón gió đông về/cành cây khô/ mọc ra một nhánh cây khô... (Lãng mạn)
ngọn gió/ tập bay/ với một/ mùa hạ lung lay. (Thu)
em/ châm thêm đêm/ vào ngọn lửa/ đang cạn dầu. (Bừng sáng)
tảng đá nặng đến nỗi/ đè luôn vào quá khứ của ngày mai/ bầy rêu nằm
trên đó/ chưa sinh ra đã già. (Hoài niệm)
em trồng ngày/ lên bốn mùa/ chân lấm bùn/ gót hồng trắng phau. (Cánh đồng sen)
Để làm thơ, Trần Lê Khánh đặt mình trong những khoảnh khắc tĩnh lặng để nắm bắt được những biến chuyển dù nhỏ nhất ở thế giới xung quanh, quy luật của tự nhiên, bản chất của đời sống và con người, và hơn hết để đi tìm bản thể - cái tôi của chính mình: “với tôi, hành trình làm thơ là hành trình đi tìm sự yên lặng” [5] Cặp phạm trù “tĩnh” và “động”, trạng thái bên trong và biểu hiện bên ngoài, tính tối giản của ngôn từ, tính gợi của hình ảnh ẩn dụ và triết lý ẩn sâu bên dưới các ký hiệu ngôn từ của văn bản nghệ thuật, có lẽ là lý do thơ Trần Lê Khánh khiến độc giả liên tưởng tới dòng thơ thiền phương Đông và thơ thiền Việt Nam - một hiện tượng lạ trong dòng thơ ca đương đại.
Có thể nói “Giọt nắng tràn ly” và thơ Trần Lê Khánh đã khơi gợi nhiều suy ngẫm ở người đọc về bản chất của quá trình sáng tạo thơ ca, đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ, về mối liên hệ giữa văn bản thơ và sự tiếp nhận giải mã văn bản. Hơn bất cứ một lĩnh vực nào, nghệ thuật trong đó có thơ ca để có được sức sống riêng cần phải “lạ”. Sự “lạ” đó có thể hay hoặc dở, có thể được yêu thích hoặc không, có thể được hiểu và không được hiểu, nhưng nhất thiết không thể thiếu trong nghệ thuật. Sự “lạ” trong thơ ca có thể được tạo ra bởi một lối tư duy khác lối tư duy thông thường hay một cách diễn đạt được “làm mới” về câu chữ, hay ở việc tạo ra sự “giãn cách” đầy thú vị giữa nội dung bài thơ, tập thơ và nhan đề; tuy nhiên tất cả điều đó phải được biểu hiện trong một cách thức tự nhiên, xuất phát từ bên trong chứ không chỉ ở bề ngoài theo kiểu “làm xiếc ngôn từ”. Về phương diện này, thơ Trần Lê Khánh thực sự là “một ca rất lạ trong nền thơ Việt Nam hiện thời”. [Nhà phê bình văn học Văn Giá]
Không chỉ vậy, thơ Trần Lê Khánh còn gợi suy nghĩ về mối quan hệ tương tác giữa tác giả và độc giả thông qua tác phẩm. Nhà thơ là người tạo ra tác phẩm và những sáng tạo tinh thần ấy lại có một đời sống độc lập với người tạo ra nó. Người đọc tiếp nhận, giải mã tác phẩm theo sự hiểu riêng của mình - điều khiến họ trở thành những “đồng tác giả” và sau đó có những phản hồi đối với tác giả. Trần Lê Khánh ý thức rất rõ về hiệu quả của sự tương tác này khi mong muốn sản phẩm của những khoảnh khắc suy tư yên lặng của riêng mình đến được với số đông bạn đọc, để nhận được những phản hồi dù tích cực hay tiêu cực, từ đó có những điều chỉnh nhất định hoặc kiên tâm với con đường thơ ca đã lựa chọn.
Quả thực, thơ ca không đơn thuần chỉ là câu chuyện của cảm xúc mà còn là câu chuyện của lý trí. Quan niệm này đã có từ lâu, ít nhất từ thời Hy Lạp cổ đại. Aristote đã đề cập đến vai trò của lý trí trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, nhằm đem lại cho tác phẩm một hiệu quả thẩm mỹ nhất định [6]. Với thế mạnh về tư duy duy lý, luôn bóc tách hiện tượng để tìm ra cốt lõi của vấn đề như Trần Lê Khánh, có lẽ tác giả sẽ vạch ra được một chiến lược dài hơi và phù hợp nhất cho những dự án thơ ca tiếp sau. Và đó là điều mà độc giả quan tâm thơ Trần Lê Khánh đón đợi.
Tài liệu tham khảo
http://antgct.cand.com.vn/Nhan-vat/13-Thi-si-Tran-Le-Khanh-Mot-hom-danh-rot-thanh-thoi-537095/
http://vietbao.vn/Van-hoa/Tran-Le-Khanh-lam-tho-de-tim-tri-ky/590571325/105/
TS. Ngô Bích Thu
REVIEW
READING THE SUNLIT OVERFLOWS THE GLASS” AND THINKING ABOUT CREATIVITY AND THE RECEPTION OF POETRY
Tran Le Khanh's name is no longer unfamiliar in Vietnamese poetry, but his collection of poems, The Sunlit Overflows the Glass leaves a “strange” aftertaste. Writing, according to Edgar Allan Poe, is like solving an intellectual problem [6]. The same can be said for Tran Le Khanh's poetry and The Sunlit Overflows the Glass l
Tran Le Khanh's poetry is a journey to find oneself through different forms of poetic language. The poems in The Sunlit Overflows the Glass lare very short, with only four or six sentences, like maxims that summarize the author's contemplation of life or a sudden emotional state. Instead of the usual writing style, the author records thoughts through poetry (words, images, rhythm, etc.). This is the author's method of releasing hidden memories within, of discovering one's own self rather than sharing it with others:
my soul is a frozen river
still and unmoving
to bathe twice I come home
I become the river
(who I am) [3]
Furthermore, because Tran Le Khanh's poetry is more about “suggesting” than describing reality, it is easy to understand why some people think Tran Le Khanh's poetry is like a “puzzle” for readers. The multi-sense and unstable nature of poetic language, the abstract and "open" nature of artistic texts, and the author's mysterious sublimated inner world all contribute to this “puzzle.” Writing poetry, according to Tran Le Khanh, is an effective way to bring balance to the poet himself: “since writing poetry, I feel everything is lighter” [5]. The “puzzle” has the effect of forcing readers to think and brainstorm in order to understand the poem's text.
Tran Le Khanh's poetry was written unconsciously in accordance with Hemingway's “iceberg” principle. The floating section contains the text, words, and language symbols, while the bottom section contains the author's idea. A background of knowledge about society, art, religion, science, and life experiences informs the concept. “The underlying part of the iceberg” adds depth to Tran Le Khanh's poetry, making readers ponder and decipher, as if they were playing a “mind game.” Readers of Tran Le Khanh's poetry must reflect in order to understand the meaning of each image in a verse, the connection between sentences in a poem, and the relationship between the overall idea of the poem and the title of the poem. Examples include:
hey fire
don’t spend the dark lavishly
don’t be so devoted
burn the night down
(her whole life is spring)
she ties up her hair at the window
the way she ties the ages of her spring
the sky has not yet untied the dawn
just brooches a wandering sunlit trail
(on the verge)
Notably, many of Tran Le Khanh's poems have a “gap” between the content and the title, which the author intended. Many poems have evocative titles that reveal philosophical, general, and contemporary thinking: just the cause, no need for the effect, who am I, don’t ask why, one day in the heaven equals to one year on earth, her whole life is spring, the desert in a speck of sand, her hair is longer than the river, love means no procession, and so on. The majority of the poems in The Sunlit Overflows the Glass are divided into two sections: minimalistic, sometimes “broken” lines in the poem's content and generic, concluding titles. This is a deliberate investment by the author, with the idea that “the title of a poem accounts for 50% of determining whether the poem is good or bad” [5]. I believe this is a work of art, a strange and impressive highlight of Tran Le Khanh's poetry. This mind game is fascinating because there will be numerous solutions or even none at all. This is the essence of Umberto Eco's concept of “open work,” because artistic texts have the property of producing heterogeneous understanding in readers, with “read and comprehend,” “misunderstood,” and even “does not understand anything.” As a result, Tran Le Khanh's poetry is “picky” with readers. The author himself is well aware of this: “I don't write poetry to find readers, I write poetry to find soulmates”:
between me and night
is a great distance
strangers
living alone in the world
(soulmate)
Readers who are interested in Tran Le Khanh's poetry are not “mass readers,” but rather readers who share some similarities with the poet in terms of knowledge, emotions, and life experiences. In What is Literature? Jean Paul Sartre mentioned this phenomenon: “every literary text is prepared in the consciousness of a potential audience: the language the author uses will attract this kind of public but not that public.” [1]
Tran Le Khanh's deep understanding of religion, Buddhism, Zen studies, and natural science is conveyed through metaphorical, symbolic images in his poetry (flame, shadow, river, boat, moon, night, water, rocks, mountains...) or the four seasons (spring-summer-autumn-winter), three-dimensional time (past-present-future), the beauty of man and creation:
phoenix flowers
blossom fully on their branches
wounding spring
(she is most beautiful in the summer)
the breeze
learns to fly
from a leaf
almost ready to fall
(don’t let them fall)
running out of oil
the girl
adds darkness
to the flames
(light)
the boulder is so heavy
its weight pins down the past of tomorrow
the moss on its surface
old even before birth
(memory)
she plants her days
into the four seasons
her bare feet muddy
but the heel is pink
(field of lotus)
Tran Le Khanh writes poetry in quiet moments to capture even the smallest changes in the surrounding world, natural laws, the nature of life and people, and, above all, to search for one's self - ego: “for me, the journey of writing poetry is the journey to find silence” [5]. The juxtaposition of the categories “static” and “dynamic,” inner state and outer expression, word minimalism, and the evocativeness of metaphorical and philosophical images hidden deep beneath the verbal symbols of artistic texts is most likely the reason Tran Le Khanh's poetry reminds readers of Oriental Zen poetry and Vietnamese Zen poetry - a strange phenomenon in contemporary poetry.
It can be said that “The Sunlit Overflows the Glass” and Tran Le Khanh's poetry have sparked many thoughts in readers about the nature of the poetic creation process, the characteristics of the art of words, and the relationship between poetry and the reception of poetic texts. More than any other field, art, including poetry, requires “strangeness” to thrive. That “strangeness” may or may not be good, liked or disliked, understood or not understood, but it is inevitable in art. The “strangeness” in poetry can be caused by a different way of thinking than usual, a “refreshing” expression of the word, or by creating an interesting “gap” between the poem's content, the collection of poems, and the title; however, all of this must be expressed naturally, from within, rather than on the outside in a circus of words. Tran Le Khanh's poetry is truly “a very strange case in contemporary Vietnamese poetry” in this regard [Van Gia, literary critic].
Not only that, but Tran Le Khanh's poetry evokes thoughts about the author's and readers' interactive relationship through the work. The poet creates the work, however, those spiritual creations live independently of the poet. Readers receive and decipher the work based on their own interpretation, making them “co-authors,” and then provide feedback to the author. Tran Le Khanh is well aware of the effectiveness of this interaction when he wants the product of his own quiet reflections to reach a large number of readers and receive feedback, whether positive or negative, from which he can make changes or continue on his chosen poetic path.
Poetry is, after all, a story of reason as well as emotions. This idea has been around for a long time, dating back to ancient Greece. In order to give the work an aesthetic effect, Aristotle mentioned the role of reason in the artistic creation process [6]. Perhaps the author will map out a long-term and most suitable strategy for his next poetry projects with the strength of rational thinking, always dissecting phenomena to find the core of the problem like Tran Le Khanh. That is what readers interested in Tran Le Khanh's poetry anticipate.
Ngo Bich Thu, PhD
References
http://antgct.cand.com.vn/Nhan-vat/13-Thi-si-Tran-Le-Khanh-Mot-hom-danh-rot-thanh-thoi-537095/
http://vietbao.vn/Van-hoa/Tran-Le-Khanh-lam-tho-de-tim-tri-ky/590571325/105/