CON ĐƯỜNG MỚI - KHỞI NGUỒN TRI THỨC

Hiện thực trong hiện thực - phát lộ điểm đồng quy vạn vật trong thơ Trần Lê Khánh

Thơ Trần Lê Khánh cho ta một cuộc viễn du vào bất tận của tâm hồn, dẫn ta đến với thế giới của những điều ràng buộc mơ hồ và ảo thực. Chẳng dại gì ta đi kiểm chứng, bởi ta biết bí mật của đại dương là niềm tin vào nước mắt từ thuở nào. Tinh thần đồng quy vạn vật trong thơ trả lời cho con người về nguyên lý của tồn tại. Đó là tư tưởng của thi sĩ Trần Lê Khánh.

Nhà thơ Trần Lê Khánh

1. Ta về đứng sững trong mười ngón tay

Với tôi, thơ ca là một cuộc dạo chơi để tìm kiếm cho mình những rung động trong câu chữ và hình tượng, trong sự biểu đạt thẩm mĩ đầy tinh tế của thi nhân. Rất ít khi, hay đúng hơn, trong tâm thế người đọc thưởng thức tôi không đòi hỏi ở thơ những câu trả lời lớn hơn việc nó mang lại cho tôi những khoảnh khắc rung cảm như vậy. Tôi bắt gặp thơ Trần Lê Khánh khi đọc được tập Xứ - Rung một ngọn mây (2020) của anh. Những bài thơ Xứ đã gợi lên trong tôi những không gian của sự tồn tại, bằng thể thơ ngắn, nhưng chứa đựng nhiều suy tư và xúc cảm, rất giàu tinh thần phương Đông. Tôi có chủ định tìm đọc Trần Lê Khánh từ đó như một người tìm thấy nguồn mĩ cảm cho tinh thần của mình giữa ngổn ngang đời sống, giữa bộn bề văn chương thơ phú hiện nay.

Tôi có thêm những tập thơ khác của Trần Lê Khánh, trước đó như Lục bát múa (2016), Dòng sông không vội (2017), Ngày như chiếc lá (2018), Lục bát Múa trọn bộ (2018), Giọt nắng tràn ly (2019), Sự bắt đầu của nước (2019)… Càng đọc, ấn tượng của tôi về một thế giới rung cảm gợi lên từ sự liên kết thống nhất của vạn vật trong thơ anh càng rõ. Tôi gọi đó là tư tưởng đồng quy vạn vật, hiểu như là trạng thái sau cùng, vĩnh hằng mà mọi sự vật hiện tượng rồi sẽ quy về. Cái sững người ban đầu dần lơi lỏng và tan ra trong tâm cảm của một kẻ đọc thơ. Chính xác hơn thì tôi đã dần hiểu rằng, vũ trụ này, đời sống này, vạn vật quanh ta đều có những mối tương liên nhất định, theo những cách thức nào đó. Giới hạn của chúng ta là sự vô minh, là ý thức rạch ròi, là tham vọng bao quát, là ý chí sở hữu, đôi khi dẫn đến việc cắt lìa hiện tượng, sự vật ra khỏi chỉnh thể của nó, lấy cái hiện tượng quy cho bản chất, lấy cái “chủ biệt” để định nghĩa, định vị, định danh cái “chủ toàn” (Cao Xuân Huy). Thơ Trần Lê Khánh mở thông cánh cửa bước vào lặng lẽ, để cảm nhận vũ trụ quanh ta, và chính ta nữa, chẳng bao giờ tách biệt, đơn lập:

xoay một trái tim thơ

thời gian rơi bước ngọc

đêm vỡ từng sợi tóc

cỏ xoay người trong mơ

(Đêm vỡ từng sợi tóc)

Vạn vật chẳng phải rồi sẽ về không ư? Phận cỏ, phận người, giấc mơ, sợi tóc, thi ca… chẳng phải rồi cũng sẽ hư tàn trong bước thời gian ư? Cảm giác sững người được hóa giải để lòng tôi thấy nhẹ nhõm hơn, để lắng nghe được nhiều hơn những gọi mời tha thiết từ vạn vật:

những giọt rượu trong hũ rượu

ngày càng say men tình

vì chúng

cứ uống lẫn nhau

(Vô cực)

Mang sẵn men tình, những giọt rượu uống nhau, say nhau là một cách nói về mối tương liên sẵn có trong lòng vạn vật. Thử nghĩ mà xem, hình dáng xác thân này của loài người có phải là một mối tương liên vĩ đại không? Sao lại phải phân biệt? Sao lại không thể chung sống? Rộng hơn, trong cái nhìn về thế giới, cái gì sinh ra từ đâu, rồi sẽ về đâu, trong vòng quay bất tận của sinh diệt, chẳng qua là sự quy hồi vĩnh cửu mà thôi.

 

2. Đi tìm điểm tựa cho một ấn tượng

Thơ Trần Lê Khánh có sự gặp gỡ của tinh thần vạn vật nhất thể phương Đông và những hiểu biết từ khoa học lượng tử trong nghiên cứu của phương Tây. Tư duy phân tích, rạch ròi của phương Tây dẫn đến sự hiểu biết, nhưng dần dần, bằng chính những nghiên cứu thực chứng mà phương Tây “tỉnh ngộ”, rằng việc tách ra cuối cùng lại đi đến sự hiểu về cái hợp nhất, sự liên kết vô cùng của vạn vật trong một cấu trúc nhất thể. Từ trước đó rất sớm, tinh thần phương Đông với đặc tính duy hợp, đã nhìn ra Thiên - Địa - Nhân nhất thể. Ở đây, chúng ta không có ý phân biệt phương Đông - phương Tây, cái nào đúng cái nào sai. Bởi lẽ, dù theo ngã nào, con đường cũng dẫn về nhất thể. Trong tinh thần Đạo giáo, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật; hay một cách hình dung khác, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến hóa vô cùng có thể xem như là quá trình giải phẫu cấu trúc của nhất thể. Để rồi, từ cái biến hóa vô cùng ấy, đến điểm cuối lại trở về nhất. Cái nhất ấy có thể được hiểu là một thực tại tối hậu mà tinh thần đạo gia hướng tới. Trong quan điểm Phật giáo, tâm là nhất thể, chấp - ngã sinh ra vạn, nhưng cuối cùng cũng quy về nhất bằng cái tâm vô sở trụ, vô ngã, phá chấp. Cái tâm là điểm khởi đầu và cũng là điểm kết thúc, khi từ đó sinh ra cái nhìn, quan niệm (tưởng tượng) của ngã về thế giới, vũ trụ. Cái nhìn phân biệt là một cảnh giới, dù có cố gắng đến đâu, chừng như vẫn bị xem là hiểu biết ở trình độ thấp, thậm chí bị xem là “vô minh”. Trái lại, dù là nỗ lực trực giác, kiến tính, hay nỗ lực khoa học thực chứng, cái nhìn đồng quy, nhất thể, được xem là hiểu biết ở trình độ cao, Phật giáo gọi là giác ngộ. Để hạn chế vô minh cần phải gia tăng trí tuệ - trí huệ, bởi vì vô minh đối lập với minh triết, tỉ lệ nghịch với trí huệ. Trong tinh thần duy lý phương Tây, vật lý học đi từ cổ điển đến hiện đại là quá trình khám phá từ vạn đến nhất, từ những trạng thái tuyệt đối đến tương đối, từ “cái là” đến “cái vừa là - vừa là”, nhưng chú trọng đến mối liên kết để duy trì sự tồn tại của vạn, mà thực ra là nhất vậy. Cái nhất ấy, các nghiên cứu vật lý hiện đại chỉ ra là lượng tử. A. Einstein gọi là “Đồng nhất thể” và ông nhận ra nó gặp gỡ với tinh thần Phật giáo. Trong triết học, tinh thần Hiện tượng học với phương pháp giảm trừ đã cố gắng bóc tách, gạt bỏ những tri thức bao phủ hiện tượng, nhằm trở về với bản chất uyên nguyên của nó. Đó cũng là một nỗ lực chiếm lĩnh cái nhất thể chưa bị định nghĩa, chưa bị che phủ hoặc tạo dựng bởi tri thức là cơ hội để con người tiếp cận được với điều ban sơ nhất. Nói như vậy để thấy rằng, ý niệm vạn vật đồng quy, nhất thể trong thơ Trần Lê Khánh đã tiếp nạp hay gặp gỡ với tinh thần minh triết của nhân loại. Không minh họa cho tư tưởng tôn giáo hay học thuyết triết học, những bài thơ ngắn của Trần Lê Khánh đến với người đọc bằng cảm xúc, bằng những rung ngân trong trái tim người nghệ sĩ. Đó là một ngả lối, một hình dung mà H. Begrson trong triết học trực giác của mình đã từng nêu lên. Mặc dù vậy, con đường trực giác không phải đến khi triết gia người Pháp kia phát biểu thì mới có. Như đã nói ở trên, có khi chỉ là một tiếng chuông, một bông hoa sen, một giọt sương, một chiếc lá, một hơi ấm, một gợn gió, một cơn mưa, một đám mây, một ngọn núi, một dòng sông, một bước chân, một ra đi, một trở về, một nằm xuống… đã mang trong lòng nó những mối liên kết và quy đồng vạn vật:

trăm năm rồi

tiếng chuông chiều

rót không đầy

gợn gió phiêu phiêu

                     (Vũ trụ)

3. Biểu hiện của tư tưởng đồng quy vạn vật trong thơ Trần Lê Khánh

Thơ, không phải là triết học, nhưng nó là một dạng thức của minh triết. Chân lý của thơ không cần, không nên kiểm chứng, nó thầm lặng đến bên chúng ta trong sự xúc động sâu xa của trí cảm. Điểm đồng quy vạn vật trong thơ Trần Lê Khánh vừa hé lộ những cảm thức tôn giáo, nhận thức khoa học, nhưng trên hết và trước hết nó là sự thức nhận đầy tinh tế của một tâm hồn thi sĩ. Điều đó, xem ra gần với trạng thái “nhất tâm” mà Phật giáo gợi lên để quán chiếu về vũ trụ và thế giới:

mỗi lần

đi qua mùa thu

chiếc áo cà sa

khô hơn chiếc lá

(Hành trình hư vô)

bóng chiếc áo cà sa

bay phần phật trong gió

như chiếc lá vàng

đâu nhớ nổi ai mang

                     (Thu)

Chiếc lá vàng - khô bởi mùa thu, vạn vật úa tàn bởi thời gian, chiếc áo cà sa kia tượng trưng cho sự chịu đựng, vì lẽ huyền minh của nó. Đồng thời, ai mang áo cà sa không còn là mối bận tâm nữa, ở đó là đạo pháp, là con đường, là hiện thân của thực tại sau cùng. Trần Lê Khánh nhấn mạnh vào biểu tượng áo cà sa như một hé mở về tinh thần và tư tưởng của mình. Trong sự cụ thể của biểu tượng có cái trừu tượng của vô biên. Nhưng, thử nghĩ tiếp mà xem, vô biên kia cũng chẳng rời khỏi những mối liên thông làm nên chỉnh thể của vạn vật:

mây

nhè nhẹ thở

trong một

giọt sương

(Mãi mãi)

Mối tương liên giữa mây và sương, giữa bất định và ổn định gọi tên một thực thể thống nhất là tồn tại. Giữa cái có thể quan sát và cái không thể quan sát hiển hiện một hơi thở nhẹ như là cách hình dung về những điều được hé lộ và những điều còn ẩn giấu. Xét cho cùng, mây và sương đều là những dạng thức khác nhau của thực thể nước. Vậy thì sao có thể nói về sự tách biệt hay đơn lập tuyệt đối giữa mây và sương?

Đồng quy vạn vật trong thơ Trần Lê Khánh chính là điểm gặp gỡ cuối cùng của vạn vật, của tự nhiên và con người, của con người với nhau, của những mối tương liên ràng buộc, của những tương tranh đối lập. Dẫu như thế nào, cuối cùng mọi thứ rồi sẽ được an bài trong một viễn tượng bất định, bất toàn. Biết thế, hiểu thế, để sống, để ứng xử, để vị tha thanh thỏa và hơn hết là để đừng tự làm tổn thương mình, tổn thương người, chấp nhặt vào hiện tượng:

tháng năm đi thẳng vô cùng

đường dài phía trước tận cùng sau lưng

(Giọt nắng tràn ly)

Vật lý lượng tử chỉ ra chiều thứ tư của tồn tại chính là thời gian. Thời gian có thể bị bẻ cong, bị vượt qua nếu năng lượng đủ lớn (trong công thức E = mc2 của A. Einstein). Nếu Einstein tính toán năng lượng dựa trên khối lượng của vật chất nhân với bình phương của tốc độ ánh sáng (300.000m/giây) để chỉ ra tính tương đối trong các khả năng tồn tại của vật chất, thì thi sĩ nói đến sự vô cùng - tận cùng. Có một điều thú vị ở đây, chẳng biết Einstein có nghĩ đến không, đó là ý nghĩ còn nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Vậy thì, năng lượng của tư duy và mĩ cảm sẽ tạo ra điều gì, sẽ đưa tồn tại đến đâu? Chính trong tốc độ của ý nghĩ mà thời gian (nghệ thuật, thời gian tâm tưởng) có thể được định hình theo mọi cách trong tâm tưởng của chủ thể sáng tạo. Đường dài phía trước, tận cùng phía sau, quả đúng như Nguyễn Du đã cảm thán: Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh (Truyện Kiều). Cái xa của không gian cũng là cái xa của thời gian, của những gì không thể đo đếm, lường dự được. Trong tính nhất thể ấy, con người nhận ra mình, nhận ra vạn vật, nhận ra những khoảnh khắc hiện hữu, đồng thời chuẩn bị tâm thế cho mình trước dài rộng vô biên:

một hôm gió thổi

chiếc lá lạnh sống lưng

khi dưới đất lộ ra bộ xương hóa thạch

của lối mòn triệu năm về trước

em đã đi qua

(Vậy à)

Điểm đặc biệt, rất cần lưu ý ở đây, đó là quy đồng nhất thể trong thơ Trần Lê Khánh không phải là điều gì hư vô, siêu hình, mà là những hình tượng, biểu tượng của điểm gặp gỡ sau cùng. Đó có thể là tình yêu, là cố hương, là một nương trú vĩnh hằng, bất diệt trong tâm thức. Trong cái nhìn phân tích, rất có thể điều đó sẽ tiếp tục được soi xét, nhưng với thơ ca, cảm thức về tính vĩnh hằng, trường cửu khác với hiện tượng, đối tượng nhận thức của vật lý, của hiểu biết khoa học. Nhà thơ, với tâm hồn và mĩ cảm của mình, nhìn ra sự nhất thể ở trong vạn vật bằng chính giá trị vĩnh hằng, không thể phôi pha, không thể chia tách, không thể bị hủy diệt nữa. Có lẽ, chính những mộng mơ thi ca đã nuôi dưỡng nguồn mĩ cảm này. Thi sĩ, một kẻ mộng mơ có thể hoàn thành hành trình quy hồi của mình khi tựa bóng vào hiên nhà thơ ấu, khi tìm lại mảnh trời cố hương sau biết bao trôi dạt:

trong muôn trùng

quả núi phập phồng nhịp đập

để những con sóng hồng 

vòng về cố hương

(Quả tim núi)

Trong muôn trùng là một quy hồi vĩnh cửu về thời gian. Ý niệm thi ca dồn tụ lại ở nhịp đập phập phồng của quả tim núi và hành trình vòng về cố hương của những con sóng hồng. Tại sao lại là sóng hồng? Phải chăng đó là những con sóng mang theo thịt da của núi, mang theo mạch sống trong lòng núi? Vòng về cố hương hiển hiện một trạng thái đồng quy trong tâm thức kẻ tha hương. Trần Lê Khánh không phải là một nhà vật lý, không phải là một triết gia, anh là một quả núi mang trái tim thi sĩ lưu đày. Và vì thế, mối liên hệ càng trở nên tha thiết:

ngày em về

con đường mòn thức dậy

dãy núi úp mặt vào bật khóc

bên kia hư vô

(Vô tận)

Thơ không phải triết học, càng không phải khoa học, thơ là thể loại nghệ thuật, đậm đặc tinh thần chủ quan nhất. Do vậy, càng phải nhấn mạnh hơn nữa về đặc tính của nhất thể trong thơ Trần Lê Khánh, đó là một hiện thực của tâm hồn, một thực tại của trí cảm, nó là nhất thể trong quan niệm của thi sĩ. Quan niệm ấy cắm rễ, nảy mầm, đâm cành tỏa bóng thành tư tưởng nghệ thuật. Về bản chất, tính nhất thể của vạn vật trong thơ hay trong triết học, tôn giáo, khoa học… không khác nhau, bởi nó quy chiếu về trạng thái tận cùng, không tách rời, biện biệt của hiện thực. Tuy nhiên, nếu đem con mắt của khoa học mà nhìn vào thơ, nhìn vào nghệ thuật, có thể chúng ta sẽ bắt gặp những cong vênh, thậm chí là mâu thuẫn. Có nhiều con đường để đi đến chân lý, và không phải phương pháp nào cũng có thể ứng dụng một cách hiệu quả cho một hành trình thám mã, nhất là khi hành trình đó dẫn ta vào thế giới mênh mông của tâm thức con người:

đêm bồi bóng tối

lên đôi bờ thời gian

cho màu mỡ

lối thiên đàng

(Phù sa)

Tâm thức mộng mơ (G. Bachelard) của thi sĩ là con đường ngắn nhất để tới thiên đàng. Thiên đàng ấy là miền mĩ cảm tuyệt cùng mà thi sĩ hoài vọng (khắc khoải hi vọng và tuyệt vọng). Đêm mang phù sa bóng tối đắp bồi lên thời gian, nuôi dưỡng mơ mộng. Trong sự màu mỡ của bóng tối, những bí ẩn, huyền nhiệm thức dậy, kể cho chúng ta nghe câu chuyện về lẽ sinh tồn của thế giới, của chính chúng ta. Nói như thi sĩ Hàn Mặc Tử, ai bảo chiêm bao không có thực, có thấy hai hàng nước mắt của tôi không? Mộng mơ không hẳn chỉ là mơ, là chiêm bao, mà còn là tưởng tượng, là trạng thái thoát ly khỏi những thực tại biểu kiến để tiếp cận hay mường tượng ra những điều chưa có trong hiện tại. Chưa có không có nghĩa là không có. Giới hạn của trí não giam cầm ta trong những thực tại nông gần, thế nên, như các thi sĩ của nhóm Đạ Đài thuở tiền chiến đã từng quả quyết: “Chúng ta không thể tách lập được hẳn thực hư, và chia đôi địa chấn bằng một bờ sao rõ rệt. Cõi mộng và cõi đời đã thâm nhập ở nhiều nơi, và ở nhiều nơi đã thấm trộn cùng nhau trong một cuộc giao hòa bí mật. Có ở cõi đất chúng ta không: - những đường lối cố đô, những vì sao huyền ảo! Nhiệm vụ của thi ca là phải khai thông con đường giao cảm ấy. Một đầu phố cô đơn, một con đường thăm thẳm: tất cả những phong cảnh trần gian sẽ phải hư lên vì sự thực” (Bản tuyên ngôn tượng trưng, Thơ mới 1932 – 1945 tác giả và tác phẩm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004, tr. 1256). Lối lên thiên đàng trong thơ Trần Lê Khánh chính là nẻo về của hư thực trong ánh sáng và bóng tối của tồn tại. Hư thực làm sao phân biệt được (Hàn Mặc Tử) thế nên, thi sĩ đắm mình trong mỡ màu của mơ mộng để khai mở con đường đến với những liên kết làm nên thể toàn vẹn thống nhất của vạn vật:

ngọn gió

sờ vào bóng tối

trong hình thù

giấc chiêm bao

(Vision)

Hình tượng là sự hiện ra của một mối giao hòa sâu thẳm từ trong bản chất, bản tính của sự vật, hiện tượng. Trần Lê Khánh nói về ngọn gió, nói về bóng tối, nói về chiêm bao, toàn những điều tưởng như vô hình, ảo mộng, nhưng cái khiến ta đồng cảm hơn cả là động thái chạm vào - sờ vào. Tầm nhìn hay sự nhìn, khả năng nhìn, những thực ảo đan cài phối trộn, nhòa lẫn vào nhau cần phải có con mắt mộng mơ của thi sĩ may ra mới có thể lĩnh hội được. Tại đó, thế giới là một thể thống nhất, không tách rời nhau, không dửng dưng biện biệt:

tại vì tạo hóa thông minh

cho nên mảnh vỡ có hình tự nhiên

(Bồi hồi)

Hình tự nhiên là cách gọi tên chạm được vào bản chất nhất thể của tồn tại. Con người, dù có thông minh đến đâu, khéo léo đến đâu, vẫn phải dựa trên những cấu trúc nội tại của tự nhiên để chế tác nên văn minh và văn hóa của mình. Xét ra, những giá trị từ cổ xưa đến hiện tại mà con người tạo lập, có điều gì không vay mượn từ tự nhiên. Tách mình khỏi tự nhiên, chế ngự tự nhiên hay xem thường tự nhiên chẳng khác gì là một sự phản bội, một động thái vô minh, một trầm luân của não thịt. Thi sĩ cất mình lên khỏi những trầm luân ấy trong mộng mơ huyễn tưởng, trong ánh sáng khải huyền về một cõi giới vô cùng nhưng khăng khít lạ kỳ:

biển biết bí mật

lũ hải âu

mải mê tha muối bỏ xuống đại dương

vì kiếp trước lỡ tin nước mắt

(Biển đau mặn)

4. Ai là kiếp trước của ai?

Thơ Trần Lê Khánh cho ta một cuộc viễn du vào bất tận của tâm hồn, dẫn ta đến với thế giới của những điều ràng buộc mơ hồ và ảo thực. Chẳng dại gì ta đi kiểm chứng, bởi ta biết bí mật của đại dương là niềm tin vào nước mắt từ thuở nào. Tinh thần đồng quy vạn vật trong thơ trả lời cho con người về nguyên lý của tồn tại. Đó là tư tưởng của thi sĩ Trần Lê Khánh. Tư tưởng ấy hé lộ những chiều kích sâu xa hơn của hiện thực, nơi trí não lắm khi rơi vào bối rối và bất lực. Sự khải thị của thi ca, nói vậy, xem ra đã đứng ngang hàng với triết học, thần học, thậm chí vượt lên những khoa học thực chứng tinh vi nhất. Thế nhưng, đáp án của thi ca không phải là những kết quả, những con số, những định luật, học thuyết. Đáp án của thi ca là những rung cảm thẩm mĩ trong sâu thẳm tâm hồn người đọc. Bởi vậy, đọc thơ Trần Lê Khánh giữa biết bao mối ràng buộc đời sống, nghĩ về tinh thần đồng quy như nhất, người ta có cơ may, cơ hội để bước đi thanh thản hơn giữa điệp trùng luyến lưu của vạn vật.

TS. ngôn ngữ học Phạm Việt Long

Chủ tịch viện Nghiên cứu Văn hoá và Phát triển

Tổng Biên tập Tạp chí Điện tử Văn hoá và Phát triển

 

REVIEW

Reality inside reality - revealing the point of convergence of all things in Tran Le Khanh's poetry

 

1. I come back to stand transfixedly inside the ten fringers

For me, poetry is a wandering to find myself the vibrations in words and images, in the poet's subtle aesthetic expression. Rarely, or rather, in the state of the reader's enjoyment I do not ask for greater answers from poetry than such emotional moments. I came across Tran Le Khanh's poetry when I read his poem collection The Place of Nowhere (2020). The poems in X have evoked in me the spaces of existence, they are in brief poetic form, but they are quite dense in Oriental spirit and include many thoughts and emotions. Since then, I have come to see Tran Le Khanh as someone who finds an aesthetic source for his spirit in the midst of life's chaos, as well as the current chaos of literature and poetry.

I read other poetry works by Tran Le Khanh, such as The Dance of Luc bat (2016), The River Never Hurries (2017), The Day is a Leaf (2018), Dance of Luc bat, full set, The Sunlit Overflows the Glass (2019), The beginning of Water (2021) … The more I read, the clearer my impression of a world of vibes evoked from the unified connection of all things in his poetry. I call it the thought of converging all things, understood as the final, eternal state to which all phenomena will eventually return. The initial stupor gradually loosens and dissolves in the heart of the reader. More precisely, I have gradually understood that this universe, this life and everything around us has certain relationships in certain ways. Our limitation is ignorance, clear consciousness, overarching ambition, and will to possess, which occasionally causes us to separate phenomena and objects from their entirety, take the phenomenon as the essence, and use the “parts” to define, locate and identify the “totality” (Cao Xuan Huy). The poetry of Tran Le Khanh invites us to enter quietly and sense the world around us and ourselves, which are never apart from one another:

turn a naïve heart

and time drops its pink heels

night breaks every hair

grass turns its body in the dream

(night breaks every hair)

Wouldn't everything eventually fade away to nothing? These things—grass, people, dreams, hair, poetry—won't they all vanish together with time? The feeling of stupor was resolved to make one’s heart feel lighter, to hear more earnest invitations from all things:

drops of wine in the bottle

are drunk again and again

as they

savor each other forever

(infinity)

The drops of wine, carrying the yeast of love, drinking each other and getting drunk, is a way to describe the affinity at the heart of all things. Come to think of it, is this human form a great correlation? Why distinguish? Why can't we live together? More broadly, in the view of the world, what is born from where, then where it will go, in the endless cycle of birth and death, is just an eternal regression.

 

2. Seeking the basis for an impression

The universal oneness of the East and Western research's use of quantum physics discoveries meet in Tran Le Khanh's poetry. The West's clear, analytical thinking leads to an understanding, but gradually, through positivist studies, the West “realizes” that separation ultimately leads to an understanding of unity, the infinite connection of all things in a unified structure. The Oriental spirit, with its distinct qualities, has seen Heaven, Earth, and Man as one since very early times. We do not intend to make a distinction between the East and the West or between what is right and what is wrong in this context. The truth is that the road will undoubtedly end in unity, regardless of the direction. In Taoism, one creates two, two creates three, and three creates all things. Or, to put it another way, taiji creates yin-yang, yin-yang creates four symbols (sixiang), four symbols create eight trigrams (bagua), and the eight trigrams transform infinitely. This process can be thought of as the anatomical development of the structure of unity. Then, after completing that endless transition up to the final point, it went back to the beginning. That unity might be thought of as the ultimate truth that Taoist spirituality strives to achieve. According to Buddhism, the mind is one, self-attachment creates everything, but ultimately it also converges to the one with the omnipresent mind, no-self (anattā), shattering the attachment. When the self's perception of the world and the universe arises from that, the mind serves as both the origin and the destination. No matter how hard you try, discrimination tends to be regarded as having a low degree of comprehension, if not outright “ignorance.” Contrarily, the converging, single-minded vision is thought to be a high level of comprehension, which Buddhism refers to as enlightenment, regardless of whether it is an intuitive effort, a view of nature, or a positivist scientific endeavor. Since ignorance is antagonistic to knowledge and inversely proportionate to wisdom, it is vital to increase knowledge and wisdom (prajñā) in order to reduce ignorance. The transition of physics from classical to modern, from absolute to relative states, from “either-or” to “both-and,” in Western rationality, is the process of discovering that all things are in fact one, while concentrating on the connection to maintain the existence of all things, which is actually the one. The one is quantum, according to studies in current physics. A. Einstein saw it as coincident with the Buddhist spirit and gave it the name “Oneness.” Phenomenology in philosophy has attempted to disentangle and strip away the knowledge that surrounds the experience in order to get back to its fundamental character. It is also an effort to occupy the undefined unity that has not yet been established or covered by knowledge, giving people a chance to interact with the most basic ideas.

Saying this demonstrates how Tran Le Khanh's poetry reflects the spirit of human wisdom, which converges and unifies all things. Tran Le Khanh's short poems convey feelings and vibrations from the artist's heart to the reader without illustrating religious ideas or philosophical doctrines. That is how H. Bergson originally described it in his philosophy of intuition. The intuitive path, however, was already in place before the French philosopher mentioned it. A bell, a lotus flower, a drop of dew, a leaf, warmth, a ripple of wind, a mountain, a river, a step, a departure, a return, a lie down... have all contributed to the links and convergence of all things, as was previously stated:

for a hundred years

dusky evening sounds of the bell

still not full

a breeze

(universe)

 

3. The expression of the thought of converging all things in Tran Le Khanh's poetry

Poetry is not philosophy, but it is a form of wisdom. The truth of poetry does not need, should not be tested, it silently comes to us in the profound emotion of the mind. The point of convergence of all things in Tran Le Khanh's poetry has just revealed religious feelings, scientific awareness, but above all and foremost, it is the subtle perception of a poet's soul. That seems close to the “one-mind” state that Buddhism evokes for contemplation of the universe and the world:

each time

the monk passes autumn

his Buddhist robe

is drier than a yellow leaf

(journey to emptiness)

 

a frock dressed by a monk

flies flapping in the wind

a yellow leaf

that never remembers which tree

(autumn)

Because of its magical power, the kasaya symbolizes endurance in contrast to the dry, yellow autumn leaf, which represents everything that has withered due to time. At the same time, it doesn't matter who wears the kasaya since there is the dharma, the path, and the embodiment of supreme reality. The kasaya symbol was emphasized by Tran Le Khanh as a representation of his spirit and way of thinking. The abstraction of the limitless is present in the symbol's concreteness. However, when given further thought, the links that make up the whole of things are not lost in the infinite:2w

the cloud

breathes

inside a drop

of dew

(for ever)

The relationship between clouds and dew, between uncertainty and stability calls forth a unified entity, which is existence. Between the observable and the unobservable emerges a light breath as a way of visualizing the revealed and the hidden. After all, clouds and dew are both different forms of water entities. So, how can one speak of the complete separation or isolation of clouds and dew?

The convergence of all things in Tran Le Khanh's poetry is the final meeting point of all things, of nature and people, of people together, of binding relationships, of opposing conflicts. Either way, everything will eventually be arranged into an uncertain, imperfect perspective. Knowing that, understanding that, to live, to behave, to satisfy altruism and, above all, to not hurt yourself, hurt other people, and resent the phenomenon:

time moves straight

the long road ahead ends on our backs

(the sunlit overflows the glass)

Time is the fourth dimension of existence, according to quantum theory. If the energy is great enough (according to A. Einstein's theory E = mc2), time can be bent or exceeded. The poet refers to the indefinitely - the infinity, although Einstein calculated the energy based on the mass of matter multiplied by the square of the speed of light (300,000 m/s) to demonstrate relativity in the possibilities of matter's existence. A thought that travels faster than the speed of light is an intriguing concept, however I am not sure if Einstein was aware of it. So what and where would the energy of thought and aesthetics drive existence to?

Time (art, nostalgia time) can be shaped in every way in the imagination of the creative subject at the speed of thought. The long road ahead, the end behind, is as true as Nguyen Du proclaims: She viewed the road ahead and dread seized her (The Tale of Kieu). The distance of space is also the distance of time, of what cannot be measured or predicted. In that oneness, individuals come to understand who they are, what exists, and the moments of existence, while also preparing their minds for the boundless length and breadth of existence:

  one day the wind blows

  along the leaf’s cold spine

  the ground appears as a forssil

  of the worn road she travelled

  a million years before

  (is that all)

The unity in Tran Le Khanh's poetry, it should be underlined, is not something metaphysical or derived from nothingness, but rather the pictures and symbols of the ultimate convergence. It might be a place of love, a home, or an everlasting mental haven. It's possible that this will still be taken into account from an analytical perspective, but poetry's sense of eternity differs from how physics and science perceive phenomena and objects. The poet perceives the unity in all things by virtue of its own eternal value, which is unbreakable and indestructible, using his soul and aesthetic sense. Perhaps this artistic source is nurtured by poetic fantasies. Leaning against the porch of his boyhood home, a poet or dreamer can finish his voyage of regression when he finally locates his hometown after so many drifts:      

in the myriad of mountains

one heaving mountain beats

for those pink waves

circling back to where they began

(the mountain’s heart)

in the myriad of mountains is an eternal return in time. Poetic notions gather in the heaving beat of the mountain heart and the rosy wave's return journey to the hometown. Why rosy waves? Is it the waves carrying the flesh of the mountain, carrying the lifeline in the heart of the mountain? Returning to the hometown shows a converging state in the mind of the expatriate. Tran Le Khanh is a mountain with the heart of an exiled poet; he is neither a philosopher nor a scientist. And so the relationship becomes even more intense:

the day she returns

the worn road wakes up

the mountain’s face in its hands

crying over the other side of nothing

(beginning of the endless)

Poetry is a type of art with the most subjective character; it is not a philosophy or even a science. The trait of oneness in Tran Le Khanh's poetry, which is a reality of the soul, a reality of the intellect, and a unity of oneness in the poet's conception, must therefore be emphasized more and more. That idea germinates, grows, and blossoms into a creative idea. It does not really matter whether it is expressed in poetry, philosophy, religion, or science—it all speaks to the ultimate, undivided state of reality. But if we look at poetry and art via the scientific lens, we might see distortions or even inconsistencies. When embarking on a cryptanalytic adventure, especially one that takes us into the enormous universe of the human mind, there are numerous ways to the truth, and not all approaches can be used effectively:

  night feeds the darkness

  to form two shores of time

 enriching

  the road to paradise

  (alluvium)

The quickest route to paradise is through the poet's dreaming mind, according to G. Bachelard. The poet longs for paradise as the ultimate aesthetic (with anxious hope and despair). Dark mud is brought by night to fill time and feed dreams. Mysteries and marvels awaken in the fertile darkness, giving us the tale of the survival of the world and of ourselves. Have you seen my two lines of tears, like the poet Han Mac Tu who claimed that dreams are not real? Dreaming is not just a dream, a reverie, but also an imagination, a state of escape from apparent realities to approach or imagine things that are not in the present. Not in the present yet does not mean there is not. The limitations of the mind imprison us in superficial realities, as the poets of the pre-war Da Dai group once stated: “We cannot entirely separate reality from fantasy, and divide the ground in two with a distinct bank of stars. Many areas have seen the penetration of the dream world and the actual world, and many more have seen the blending of the two worlds in a secret harmony. Are there mystical stars and old capital roads in our country? Poetry's job is to widen that empathetic lane. All worldly sceneries will need to be destroyed in the name of truth, whether it be a lonely street or a deep road.” (The manifesto of symbolism, Thơ mi 1932 1945 tác gi và tác phm, Vietnam Writers' Association Publishing House, Hanoi, 2004, p. 1256). The return from reality and fantasy in the brightness and darkness of existence is the path to paradise in Tran Le Khanh's poetry. According to Han Mac Tu, reality and fantasy cannot be separated, thus Tran Le Khanh the poet immerses himself in the diversity of dreams to pave the path for the connections that form the entirety and oneness of all things:

wind

touching darkness

shapes the form

of dream

(vision)

The image depicts what seems to be a profound harmony with nature, with the nature of objects and happenings. The act of touching is what evokes the most empathy in us when Tran Le Khanh talks of the wind, the night, dreams, and other seemingly unseen or fantastical phenomena. To understand the intertwined and hazy virtual realities, one needs to have a poet's dreamy eye. Vision is the view, the capacity to see them. There, the world is one cohesive whole, interconnected, and devoid of apathetic prejudice:

because the creator is wise

all broken pieces are born with natural shapes

(noltagic)

Narural shape is a designation that touches on the unity of existence. No matter how intelligent or skilled they are, humans must nonetheless depend on natural processes to create their civilization and culture. In the end, human ideals developed from prehistory to the present are not inspired by nature. Separating from nature, attempting to control it, or abhorring it are all betrayals, acts of ignorance, and a vicious cycle of flesh and blood. In phantasmagorical hallucinations and the apocalyptic light of an endless but oddly close world, the poet rises beyond these tragedies:

the sea knows the secret

that seagulls

must endlessly carry salt to the ocean

because they were blinded in a previous life to believe in tears

(the sea’s salty pain)

 

4. Who is whose past incarnation?

Tran Le Khanh's poetry gives us an endless journey into the soul, leading us to the world of vague and virtual attachments. It is not foolish to go to check, because we know the secret of the ocean is the belief in tears since time immemorial. The spirit of converging all things in poetry answers people about the principle of existence. That is the thought of the poet Tran Le Khanh. Such contemplation reveals deeper planes of reality, where the intellect frequently becomes perplexed and powerless. The discovery of poetry, in other words, appears to have surpassed even the most advanced positivist sciences and stood on level with philosophy and theology. However, the poetry's response is not found in outcomes, figures, laws, or tenets. The reader's deepest aesthetic feelings are the poetry's response. Thus, by contemplating the spirit of convergence while reading Tran Le Khanh's poetry in the middle of so many life connections, one has the chance to stroll more peacefully through the overlapping meanings of all things.

Pham Viet Long, PhD in Linguistics

 

 

Đăng kí nhận tin

Hotline: 0912.568.999
Chat tư vấn ngay messenger zalo